(TT&VH) - Trong lời ăn tiếng nói hàng
ngày của người Việt, có rất nhiều đại từ dùng cho ba ngôi thứ nhất, thứ hai và
thứ ba, trong khi hầu hết các ngôn ngữ khác, đại từ nhân xưng rất đơn giản, như
tiếng Anh chẳng hạn, chỉ có I và You, ngôi thứ ba He, She và It, cùng số nhiều
của ba ngôi đó.
1. Chúng ta có thể kê ra hàng loạt đại từ nhân xưng trong tiếng
Việt như : Tôi, ta, tao, tớ, mày, anh, em, chị, cô, chú, bác, ông, cụ, nó…Nghĩa
là ngoài một số đại từ cơ bản như tôi và anh, mày và tao, thì có vô số đại từ
vốn chỉ thứ bậc và quan hệ huyết thống trong gia đình được đưa tuốt ra ngoài xã
hội.
![]() Đàn bà cãi nhau. Hình trong sách "Kỹ thuật của người An Nam", Henri Oger, xuất bản đầu thế kỷ 20. |
Một số đại từ lại được nói trong cả hai ngôi,
vì dụ ta có thể xưng chị, đưa cho chị cái này (ngôi thứ nhất) rồi lại gọi một
cô gái khác là chị ơi, chị đi đâu đấy (ngôi thứ hai). Việc xưng hô như vậy làm
cho tiếng Việt trở nên phong phú, nhưng cũng phức tạp và phiền hà không kém,
trở thành một ngôn ngữ mang nhiều mầu sắc lễ nghĩa tôn ti.
Nhưng
tiếng Hán của người Hán vốn là một dân tộc sinh ra Nho giáo với nhiều nghi lễ
phiền toái, lại chỉ có ba ngôi xưng hô thông dụng : Ủa, Nỉ và Tha (1,2,3 ).
Tất
nhiên trong chốn quan trường, công sở, thi lễ thì tiếng Hán được dùng để xưng
hô cũng phức tạp bậc nhất, người ta phải tùy từng địa vị, quan hệ, hoàn cảnh mà
ăn nói cho đúng phép – một thứ kính ngữ sâu sắc và lôi thôi chưa từng có. Khi
hai kẻ sỹ gặp nhau, họ nói là Thưa túc hạ (tôi chỉ dám nói với cái chân của
ngài), gặp quan trên, bề trên thì Thưa các hạ (tôi chỉ dám nói với cái
gác của ngài), gặp hoàng tử, thái tử thì nói Thưa Điện hạ (tôi chỉ dám
nói với cung điện của ngài), yết kiến vua thì thưa Tâu Bệ hạ (tôi chỉ
dám nói với cái bệ của nhà vua). Rồi gọi nhau là Đại nhân, Tiên sinh,
Thượng quan, Tướng công, Đại phu, Tráng sỹ, Hiền sỹ, Tướng quân… tức là những
chức tước cũng được dùng thành ngôi thứ hai ba để kính ái nhau. Ngược lại kẻ
làm vua lại xưng khiêm tốn, ví dụ xưng Cô (kẻ cô đơn này), Quả nhân (kẻ cô độc
này), trẫm (kẻ ngu tối này)… kèm theo lối ăn nói văn hoa, khen ngợi, xưng tụng,
tâng bốc. Ví dụ: Nghe danh ngài như sấm dậy bên tai đã lâu, nay gặp mặt mới
thỏa lòng mong ước/ Tôi gặp ngài khác nào quạ dám sánh với phượng hoàng, ngựa
hèn sánh với kỳ lân/ Đức độ của ngài lan ra bốn bể, khắp hang cùng ngõ hẻm, ai
ai cũng nghển cổ trông ngóng/ Lời của ngài chúng tôi đã phải rửa tai chín lần
để chờ đợi…
Mặc
dù kính ngữ phức tạp như vậy, nhưng trong khi nói chuyện, người ta chỉ cần thưa
tôn kính lần đầu, còn những câu nói sau có thể quay lại Nhĩ – Ngã như bình
thường. Giống như ta nói tiếng Anh : Thưa Tiến sỹ, anh có khỏe không? Điều này
là hoàn toàn khác với tiếng Việt, người ta căn bản không thay đổi đại từ nhân
xưng trong suốt cuộc nói chuyện, hoặc là phải dùng đại từ tương đương với tuổi
tác của người đang nói.
2. Nghe những người thiểu số nói chuyện, tôi thấy hai ngôi tao,
mày duy nhất cũng được dùng phổ biến, điều này cũng thấy cách đây ba bốn mươi
năm ở các tỉnh từ Thanh Hóa đổ vào trong. Tất nhiên chênh lệch tuổi tác và có
quan hệ họ hàng các ngôi vẫn phức tạp, nhưng quan hệ bình thường, việc dùng
tao, mày và nói là mi với tau là rất phổ biến.
Cha
mẹ nói với con cái, anh em gần tuổi nói với nhau, đàn ông đàn bà cùng trang
lứa… tất cả phổ biến là mi và tau. Đó là ngữ âm cổ của người Việt, thấy khắp từ
Thanh Hóa đến các xứ Quảng. Tôi nghi ngờ rằng vào một thời xưa nào đó người
Việt cũng chỉ dùng phổ biến đại từ nhân xưng đơn giản tao và mày, rồi vì một lý
do nào đó, thời nào đó, cách thức xưng hô thay đổi theo chiều hướng gia đình
hóa cho tới hiện nay.
Chuyên mục do nhà
phê bình Phan Cẩm Thượng thực hiện, xuất hiện vào số Chủ nhật hàng tuần.
|
3.
Trong một văn bản tại hội nghị giải quyết những bất đồng liên quan đến thuật
ngữ Ki tô giáo bằng tiếng Việt, do Quyền Giám sát dòng Tên hai vùng Trung Nhật
triệu tập tại Macao năm 1645, hội nghị có đưa ra mô thức rửa tội bằng tiếng
Việt có câu như sau: Tau rữa mâi nhân danh Cha uà Con, uà spirito santo - Tao
rửa mày nhân danh Cha và Con, và spirito santo (Tham khảo từ cuốn Dinh
trấn Thanh Chiêm Quảng Nam, Đinh Trọng Tuyến và Đinh Bá Truyền biên soạn).
Trong hội nghị này có 35 giáo sỹ, 31 phiếu thuận, 2 phiếu trắng và 2 phản đối
trong đó có Alexandre de Rhodes, nhưng nghị quyết vẫn được thông qua. Ở đây ta
thấy việc xưng hộ giữa cha xứ và con chiên được nói bằng hai ngôi tau (tao) và
mâi (mi, mày). Nếu ngày nay một đức cha mà xưng mày, tao với con chiên
trong nhà thờ thì quả không ổn, nhưng điều đó cho thấy có thời việc xưng hô hai
ngôi đơn giản là rất phổ biến ở Đàng Trong, nhất là xứ Quảng Nam, nơi cha
Francissco de Pina (? – 1625) được coi là người đầu tiên dùng chữ Latin phiên
âm tiếng Việt.
(còn tiếp)
Phan Cẩm Thượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét