Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012



CÔNG NGHỆ GIA CỐ NỀN ĐẤT NeowebTM

Công nghệ gia cố nền đất nói riêng hay thiết kế móng nói chung ở nước ta đang trong quá trình phát triển mạnh cùng với xu thế chung của ngành xây dựng cũng như nền kinh tế thị trường
Việc phát triển và đa dạng hóa kỹ thuật công nghệ xây dựng là điều tất yếu. Ở các nước phát triển dù đã khá hoàn thiện về công nghệ thi công nền móng công trình nhưng việc thiết kế móng và gia cố nền đất vẫn rất được chú trọng nghiên cứu vì nó là một phần vô cùng quan trọng của thiết kế thi công xây dựng công trình.
Trong những năm gần đây do điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng, các công nghệ xây dựng xâm nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều. Chúng ta vẫn chưa có bước đột phá về công tác thiết kế sáng tạo trong thi công xây dựng, chưa đáp ứng đủ cho sự phát triển của các công trình xây dựng ngày càng lớn mạnh. Vậy nhập và chuyển giao công nghệ là một bước đi phù hợp và khả thi với chúng ta trong thời điểm hiện nay.
          Đối với nước ta và đặc biệt là với các tỉnh miền núi, công tác thiết kế và xử lý móng chưa phát triển và gặp nhiều khó khăn do điều kiện kinh tế xã hội, địa hình núi đồi và thời tiết thất thường. Phương pháp gia cố nền đất bằng công nghệ ô ngăn hình mạng NEOWEBTM là một công nghệ hết sức phù hợp với các tỉnh miền núi nói chung. Công nghệ này không phức tạp về thiết kế, thi công và khả năng cung ứng vật liệu cũng như nguồn nhân lực đơn giản, có thể tận dụng vật liệu địa phương, vật liệu có sẵn giúp giảm giá thành sản phẩm, thích hợp với các tỉnh chưa phát triển về kinh tế, mức đầu tư, công trình giá trị chưa cao mà vẫn đảm bảo hiệu quả về mặt sử dụng và bảo trì. Không những thế, thi công công nghệ NEOWEBTM còn rất đơn giản, rút ngắn thời gian thi công, thích hợp với điều kiện khí hậu mưa nắng thất thường như các tỉnh miền núi nước ta, mặt khác giảm thời gian thi công là giảm giá thành xây dựng, đó là một lợi thế không hề nhỏ. Tính hữu dụng của công nghệ này còn thể hiện ở chỗ thích hợp cao với địa hình miền núi, nơi có nhiều đồi, vách cao, sông ngòi ngoằn nghèo hiểm trở, sử dụng nhiều công trình giao thông đồi núi, công trình thủy lợi phức tạp về địa hình, mái dốc taluy, độ dốc cao và phức tạp. Áp dụng tốt cho các loại đường giao thông dân dụng vùng sâu vùng xa, bớt quá trình và công đoạn vận chuyển, đơn giản hóa thi công và đào tạo nhân lực, thích hợp với vùng chưa phát triển về kinh tế xã hội cũng như trình độ kỹ thuật xây dựng.
          Hệ thống ô ngăn hình mạng NEOWEBTM là mạng lưới các ô ngăn hình mạng dạng tổ ong được đục lỗ và tạo nhám từ chất liệu polyme tổng hợp. Các mạng lưới ô ngăn hình mạng tổ ong liên hợp được liên kết chặt chẽ với nhau sẽ phân bố tải trọng trên một diện tích rộng hơn, tạo ra một lớp đệm ba chiều có cường độ chụi uốn và độ cứng cao. Lớp đệm này làm giảm độ lún thẳng đứng trong nền đất yếu, nó cải thiện được sức chống cắt và tăng cường độ chụi tải của kết cấu.
          Khi chèn lấp vật liệu, một kết cấu liên hợp địa kỹ thuật bao gồm các vách  ngăn và vật liệu được tạo ra, với các đặc tính cơ – lý địa kỹ thuật được tăng cường. Là một kết cấu linh động chịu được sự biến đổi lớn của nhiệt độ môi trường từ -70 oC đến +90 oC . Độ bền cao đạt từ 50 - 100 năm trong môi trường khắc nhiệt nhất. Đảm bảo làm việc ổn định, không thay đổi tính chất cơ lý của đất và vật liệu chèn lấp, giữ cường độ và độ bền ổn định trong môi trường thay đổi.
http://www.yenbai.gov.vn/vi/org/sbn/soxaydung/PublishingImages/Nam%202011/untitled1.bmp
Hệ thống ngăn cách Neoweb [1]
 Hệ thống NEOWEBTM được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực:
            Xây dựng kết cấu áo đường ô tô, gia cố nền đường sắt, gia cố nền sân bay, nền sân kho hay móng nông trên nền đất yếu v.v..
            Gia cố các hệ thống kênh mương, mái đê và bờ kè v.v..
            Bảo vệ các mái dốc chống sạt lở và xây dựng tường chắn đất, mái taluy, mái nghiêng, mái dốc với độ dốc phức tạp v.v..
              Gia cố xây dựng các hồ chứa nước, hồ thủy điện thủy nông v.v..
              Gia cố, xây dựng nhiều loại móng nông, móng sâu khác như mố trụ cầu, móng hầm vượt và nhiều loại móng khác.
           
http://www.yenbai.gov.vn/vi/org/sbn/soxaydung/PublishingImages/Nam%202011/untitled.bmp
Áp dụng giải pháp Neoweb [1]
            Ưu điểm của giải pháp NEOWEBTM
          Về mặt kỹ thuật:  Đảm bảo được mọi yêu cầu kỹ thuật của các công trình. Sản phẩm đạt các tiêu chuẩn hàng đầu trên thế giới (ISO 9001:2000). Vật liệu chế tạo sẵn được tính toán trong phòng không phải thực hiện hiện trường nhiều, gia công trong nhà máy chính vì vậy đảm bảo được chất lượng và độ chính xác cao của kết cấu, chất lượng của vật liệu ô lưới. Do vật liệu là polyme tổng hợp thích ứng với môi trường khắc nhiệt, khả năng chóng trọi môi trường thay đổi cao do đó làm tăng tuổi thọ công trình, giảm thiểu quy trình bảo dưỡng duy tu, bảo hành công trình.
          Về mặt kinh tế: Giảm vật liệu xây dựng, vật liệu chế tạo đơn giản, giảm chi phí quy trình sản xuất do không phải đầu tư công nghệ cao, chi phí tính toán thiết kế vật liệu chế tạo sẵn, tăng tuổi thọ, tăng chất lượng công trình, giảm chi phí đầu tư ban đầu và chi phí duy tu bảo dưỡng, bảo hành sau này, quan trọng là có thể tận dụng các loại vật liệu địa phương, vật liệu tại chỗ, giúp giảm thiểu công vận chuyển vật liệu đến chân công trình, nhân công lắp đặt, máy thi công đơn giản chi phí thấp góp phần làm giảm giá thành xây dựng công trình từ 20-30% [1]. Mặt khác chi phí đào tạo và chuyển giao công nghệ giảm thiểu đáng kể khi thi công áp dụng công nghệ gia cố nền đất này, nguồn nhân lực địa phương thích hợp, không yêu cầu chuyên gia trình độ cao, giảm thiểu chi phí đào tạo và chuyển giao công nghệ thực hiện.
Về mặt thi công: Kỹ thuật thi công đơn giản, tốc độ thi công nhanh giúp tránh được các rủi ro không cần thiết trong quá trình thi công. Không đòi hỏi nhiều thiết bị máy móc phức tạp, nhân lực dễ dàng trong đào tạo vận hành, quy trình thực hiện không phức tạp, thực hiện đơn giản trong vận hành máy móc, có thể dễ dàng tìm kiếm máy móc thi công, không tốn thời gian công sức cho vận hành thiết bị. Có thể thi công được trong các điều kiện kiện khó khăn, thời tiết thay đổi thường xuyên, đột ngột.
          Về mặt môi trường: Công nghệ gia cố nền đất bằng phương pháp ô ngăn hình mạng NEOWEBTM có tính thân thiện với môi trường cao. Khả năng thích ứng với môi trường khắc nhiệt, thay đổi mà không bị ảnh hưởng, không tác động đến các chỉ số kỹ thuật của môi trường khí hậu, không gây ô nhiễm, hủy hoại môi trường xung quanh không những trong quá trình thi công mà còn trong suốt thời gian vận hành duy tu, bảo dưỡng. Tất cả các vật liệu thi công từ vật liệu chế tạo sẵn đến vật liệu chèn lấp đêu thích ứng với môi trường, không ảnh hưởng tác động xấu đến môi trường xung quanh, sức khỏe con người, nhân lực, chính vì vậy công nghệ này được coi là công nghệ “xanh” với môi trường.
* Phương pháp thi công công nghệ NEOWEBTM:
          Phương pháp gia cố nền đất bằng công nghệ ô ngăn hình mạng NeowebTM có quy trình thi công đơn giản, việc thi công công nghệ này trong các công trình giao thông, thủy lợi và dân dụng công nghiệp là tương đối giống nhau về quy trình thi công. Các bước của quá trình thi công gồm:
          * Chuẩn bị thi công, máy móc vật liệu, gồm chọn phương án thi công phù hợp với điều kiện địa hình, tính toán loại máy móc và các quy trình khác, trong đó kỹ sư thiết kế đã có tính toán chọn hệ thống kích thước ô ngăn Neoweb, tính toán kết cấu nền móng, hệ số đầm chặt của đất nền, vải địa kỹ thuật và loại vật liệu chèn lấp vận chuyển đến chân công trình.
          * Thực hiện phần gia cố nền móng dưới, bao gồm đào và vận chuyển đất đến độ sau thiết kế, tạo hình khối móng phù hợp với kích thước công trình thiết kế, đầm chặt đến hệ số đầm đã tính toán để làm lớp đất lót móng tạo mặt bằng đồng đều đồng nhất, giúp thi công dễ dàng và đảm bảo chất lượng.
          * Thực hiện lót lớp vải địa kỹ thuật trên nền móng vừa hoàn thiện. Các lớp lót này phải bằng phẳng, không nhăn, co, không gấp tại các lớp giao nhau. Lớp vải lót phải kín, không rách, hở để tránh sự trộng lẫn vật liệu, toàn bộ lớp lót căng đều thành một mặt phẳng. Nếu trong nền đất quá ẩm hoặc có nước thì phải tiến hành hút đạt độ ẩm yêu cầu tùy vào công trình thi công và loại vật liệu chèn lấp.
          * Dải lớp ô ngăn gia cố: đây là phần chính của kết cấu áo gia cố, các ô ngăn được vận chuyển đến phải được kỹ sư thiết kế nghiệm thu đạt mới cho phép thi công. Khi trải lớp ô ngăn này phải đồng đều trên toàn bộ phần nền móng, kích thước được đo đạc chính xác không méo mó lệch lạc, phải có thiết kế quy trình rải ô, ví dụ dải từ trái qua phải, từ trong ra ngoài… Các ô phải rải đồng loạt theo cùng một phương để tránh bị lệch lạc meo mó dẫn đến giảm chất lượng thi công. Khi rải xong nếu có kết cấu neo thép phải đo lại đúng kích thước ô lưới đúng với kích thước thiết kế, nếu sai lệch phải chỉnh sửa lại đúng yêu cầu thiết kế.
          * Đổ vật liệu chèn lấp.
          Vật liệu trước khi đổ phải được nghiệm thu kiểm tra kỹ trước khi thi công. Tùy từng loại vật liệu chèn lấp mà yêu cầu thi công khác nhau. Thường thường người ta dùng máy xúc và máy gạt để đổ vật liệu sẽ thi công nhanh, đỡ tốn nhân công nhân lực. Đối với vật liệu nói chung phải đồng đều, kích thước hạt phải đạt tiêu chuẩn thiết kế được kỹ sư giám sát cho phép đổ. Với bê tông phải đúng mác thiết kế, và đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn nghiệm thu bê tông. Với đá dăm hay sỏi, cát phải đồng đều về kích cỡ hạt, sạch không lẫn bẩn, rác, và vật liệu khi đổ phải không vỡ vụn trong quá trình thi công do sự chèn ép, đè của máy thhi công. Đối với vật liệu chèn là đất trồng phải đảm bảo độ ẩm, độ chặt tiêu chuẩn, tính tơi xốp và khả năng kết dính theo yêu cầu thiết kế.
          Khi thi công vật liệu chèn lấp phải thi công đồng đều, lần lượt về cùng một phía hoặc từ giữa ra phía ngoài, không đổ dật cấp, cách đoạn. Đổ liên tục đồng đều bề mặt. Phần lớn ô lưới cao dưới 20cm nên đa số thi công đổ một lần một lớp rồi lu lèn chặt. Khi lu, đầm phải chú ý không làm xê dịch các ô lưới và hệ thống neo lưới.
          * Nghiệm thu toàn bộ công tác gia cố
          Khi nghiệm thu toàn bộ công tác gia cố này phải đạt các tiêu chuẩn thiết kế khi thí nghiệm hiện trường. Các lớp vật liệu chèn lấp phải được đầm chặt theo yêu cầu thiết kế, vật liệu phải đều, bề mặt bằng phẳng, không lồi lõm. Các ô lưới sau khi thi công còn nguyên vẹn, không xê dịch, mất định vị ban đầu, hệ thống gia cố đảm bảo, neo theo không bị uốn cong. Kích thước toàn bộ công trình phải đúng với thiết kế bản vẽ thi công. Nếu cần thiết có thể thử tải, khoan hiện trường và thí nghiệm vật liệu chèn lấp tùy vào yêu cầu thiết kế và vật liệu thi công gia cố.
          * Thi công phần bên trên công trình: Tiến hành thi công các phần tiếp theo của công trình sau khi có kết quả nghiệm thu.
          Đây là quy trình thì công cơ bản có tính tổng quát, đối với các công trình cũng như loại móng khác nhau, vật liệu chèn lấp, vị trí móng gia cố subbase hay topbase... thì phương pháp thi công công nghệ NeowebTM có thể khác nhau./.



Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2012

Tao và mày (phần tiếp theo)


(TT&VH) - Ngày xưa khi bạn đến một vùng xa lạ, người ta sẽ hỏi rằng: Mày là kẻ nào? Nhưng bây giờ mà nói thế chắc là đánh nhau.
1. Trong bản in khắc gỗ ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh)  mang tên “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục”, năm 1752, được khắc bằng chữ Nôm và chữ Hán song song, có những câu sau:
- Bây chừ mày trong phép tao, tuồng có duyên xưa (Kim nhữ ngô pháp trung, cái hữu túc duyên): Ngươi đã được theo học phép thuật của ta, dường như là có duyên từ trước.
- Ngày hôm nay nghe, hợp bằng lòng mày thửa nguyện (Kim nhật thính độ, như nhữ sở nguyện): Hôm nay được nghe Kinh, như ngươi thường mong ước.
- Thầy rằng mày đã nên phép nhà tao (Viết nhữ thành ngô pháp quyến): Thầy nói rằng ngươi đã học được phép thuật của ta.
- Tao đáp (giúp) nhà mày một áng sức vậy (Ngã trợ nhữ gia nhất trường khí lực hỹ): Ta giúp nhà ngươi  một sức vậy.
- Tao cùng mày chưng ấy lặng, chẳng hay sao lỗi ắt lại (Ngô dữ nhữ thử mẫn, bất tri hà cữu tất lai): Ta với nhà ngươi không có chuyện gì, chẳng hay lỗi ấy từ đâu ra.
(Tham khảo từ cuốn “Di văn chùa Dâu” – NXB KHXH, 1997)
Văn bản này được coi là in khắc lại của một văn bản từ thế kỷ 15, bởi toàn bộ những gì thuộc về Trung Quốc đều gọi là nước Minh. Nội dung đối thoại là giữa sư Khâu đà la và cô đệ tử Man Nương, sau này Khâu đà la vô tình bước qua Man nương khi cô ngủ ngoài bậc cửa, nên cô động mình mà có thai. Câu cuối cùng nói rằng giữa nhà sư và cô gái không có một chuyện gì, mà sao lỗi ấy từ đâu ra.
Theo truyền thuyết thì sư Khâu đà la sau đó nhận đứa bé mà Man nương sinh ra, đem vào rừng bỏ vào cây thần dung thụ (cây dâu). Sau một trận lụt cây dâu đổ xuống, người ta cưa cây thành bốn khúc gỗ, tạc bốn pho tượng Mây – Mưa -  Sấm  - Chớp rất thiêng, nay thờ ở cụm chùa Tứ Pháp, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Điểm quan trọng nhất là cho đến năm 1752, ở Đàng Ngoài, việc xưng hô giữa thầy chùa và phật tử cũng là “mày” và “tao”. Tôi cũng nghĩ là việc phiên âm chữ Nôm ở đây hơi mới, lúc đó phát âm cũng tương tự như “tau” và “mâi” thôi, riêng người Kẻ Chợ (Thăng Long) có thể đã nói “tao” và “mày”.
Cảnh chợ búa thời xưa. Trích trong sách “Kỹ thuật của người An Nam”, Henri Oger

2. Nếu đúng là trước thế kỷ 18, như văn bản chùa Dâu, người Việt vẫn xưng hô “tao” và “mày”, thì nguyên do từ đâu mà người Việt dùng những đại từ nhân xưng trong quan hệ gia đình đem ra xã hội?
Có thể sự thay đổi giữa nhân xưng đơn giản chuyển sang phức tạp không đồng loạt ở các địa phương và thời điểm. Người ta cho rằng, sau những cuộc chiến tranh ác liệt thời Trần và thời Lê với quân Nguyên Mông và quân Minh, người Việt phải đi sơ tán lung tung trong toàn quốc, người sơ tán và người địa phương phải coi nhau như người nhà, nên gọi nhau là anh em, chú bác, đồng bào (người cùng ruột).
Tiếp sau đó, nhà Lê sơ bắt đầu coi trọng Nho giáo, lấy lễ nghĩa cương thường làm rường mối xã hội, quan hệ xã hội trở nên phức tạp dần và nhiều nghi lễ, tập tục, kết quả là một cách xưng hô mới trong tiếng Việt dần hình thành cộng với sự gia tăng ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc bởi những người Hoa di cư sau năm 1644, khi nhà Minh thất bại trước quân Mãn Thanh.
Ngôn ngữ là hiện tượng rộng rãi trong cộng đồng dân tộc, nó thay đổi, bổ sung và mất đi liên tục theo các trào lưu xã hội hằng ngày. Trước kia khi muốn đơn giản nhiều người Việt đành dùng lối xưng hô theo tiếng Pháp, ngày nay theo tiếng Anh, với ba ngôi duy nhất, và khi tất cả đều là “you” với “i” thì bày tỏ tình cảm phi tuổi tác hay thẳng thắn chỉ trích nhau cũng dễ dàng hơn.
Ngày xưa khi bạn đến một vùng xa lạ, người ta sẽ hỏi rằng: Mày là kẻ nào? Chữ “kẻ” ở đây có nghĩa là địa phương, vùng đất, nên câu hỏi có nghĩa là: Anh từ đâu đến, giống hệt như Where are you from? Nhưng bây giờ mà nói thế chắc là đánh nhau.
Nhà phê bình Phan Cẩm Thượng

Tao và mày


(TT&VH) - Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt, có rất nhiều đại từ dùng cho ba ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ ba, trong khi hầu hết các ngôn ngữ khác, đại từ nhân xưng rất đơn giản, như tiếng Anh chẳng hạn, chỉ có I và You, ngôi thứ ba He, She và It, cùng số nhiều của ba ngôi đó.
1. Chúng ta có thể kê ra hàng loạt đại từ nhân xưng trong tiếng Việt như : Tôi, ta, tao, tớ, mày, anh, em, chị, cô, chú, bác, ông, cụ, nó…Nghĩa là ngoài một số đại từ cơ bản như tôi và anh, mày và tao, thì có vô số đại từ vốn chỉ thứ bậc và quan hệ huyết thống trong gia đình được đưa tuốt ra ngoài xã hội. 


Đàn bà cãi nhau. Hình trong sách "Kỹ thuật của người An Nam", Henri Oger, xuất bản đầu thế kỷ 20.
Một số đại từ lại được nói trong cả hai ngôi, vì dụ ta có thể xưng chị, đưa cho chị cái này (ngôi thứ nhất) rồi lại gọi một cô gái khác là chị ơi, chị đi đâu đấy (ngôi thứ hai). Việc xưng hô như vậy làm cho tiếng Việt trở nên phong phú, nhưng cũng phức tạp và phiền hà không kém, trở thành một ngôn ngữ mang nhiều mầu sắc lễ nghĩa tôn ti.
Nhưng tiếng Hán của người Hán vốn là một dân tộc sinh ra Nho giáo với nhiều nghi lễ phiền toái, lại chỉ có ba ngôi xưng hô thông dụng : Ủa, Nỉ và Tha (1,2,3 ).
Tất nhiên trong chốn quan trường, công sở, thi lễ thì tiếng Hán được dùng để xưng hô cũng phức tạp bậc nhất, người ta phải tùy từng địa vị, quan hệ, hoàn cảnh mà ăn nói cho đúng phép – một thứ kính ngữ sâu sắc và lôi thôi chưa từng có. Khi hai kẻ sỹ gặp nhau, họ nói là Thưa túc hạ (tôi chỉ dám nói với cái chân của ngài), gặp quan trên, bề trên thì Thưa các hạ (tôi chỉ dám nói với cái gác của ngài), gặp hoàng tử, thái tử thì nói Thưa Điện hạ (tôi chỉ dám nói với cung điện của ngài), yết kiến vua thì thưa Tâu Bệ hạ (tôi chỉ dám nói với cái bệ của nhà vua). Rồi gọi nhau là Đại nhân, Tiên sinh, Thượng quan, Tướng công, Đại phu, Tráng sỹ, Hiền sỹ, Tướng quân… tức là những chức tước cũng được dùng thành ngôi thứ hai ba để kính ái nhau. Ngược lại kẻ làm vua lại xưng khiêm tốn, ví dụ xưng Cô (kẻ cô đơn này), Quả nhân (kẻ cô độc này), trẫm (kẻ ngu tối này)… kèm theo lối ăn nói văn hoa, khen ngợi, xưng tụng, tâng bốc. Ví dụ: Nghe danh ngài như sấm dậy bên tai đã lâu, nay gặp mặt mới thỏa lòng mong ước/ Tôi gặp ngài khác nào quạ dám sánh với phượng hoàng, ngựa hèn sánh với kỳ lân/ Đức độ của ngài lan ra bốn bể, khắp hang cùng ngõ hẻm, ai ai cũng nghển cổ trông ngóng/ Lời của ngài chúng tôi đã phải rửa tai chín lần để chờ đợi…
Mặc dù kính ngữ phức tạp như vậy, nhưng trong khi nói chuyện, người ta chỉ cần thưa tôn kính lần đầu, còn những câu nói sau có thể quay lại Nhĩ – Ngã như bình thường. Giống như ta nói tiếng Anh : Thưa Tiến sỹ, anh có khỏe không? Điều này là hoàn toàn khác với tiếng Việt, người ta căn bản không thay đổi đại từ nhân xưng trong suốt cuộc nói chuyện, hoặc là phải dùng đại từ tương đương với tuổi tác của người đang nói.
2. Nghe những người thiểu số nói chuyện, tôi thấy hai ngôi tao, mày duy nhất cũng được dùng phổ biến, điều này cũng thấy cách đây ba bốn mươi năm ở các tỉnh từ Thanh Hóa đổ vào trong. Tất nhiên chênh lệch tuổi tác và có quan hệ họ hàng các ngôi vẫn phức tạp, nhưng quan hệ bình thường, việc dùng tao, mày và nói là mi với tau là rất phổ biến.
Cha mẹ nói với con cái, anh em gần tuổi nói với nhau, đàn ông đàn bà cùng trang lứa… tất cả phổ biến là mi và tau. Đó là ngữ âm cổ của người Việt, thấy khắp từ Thanh Hóa đến các xứ Quảng. Tôi nghi ngờ rằng vào một thời xưa nào đó người Việt cũng chỉ dùng phổ biến đại từ nhân xưng đơn giản tao và mày, rồi vì một lý do nào đó, thời nào đó, cách thức xưng hô thay đổi theo chiều hướng gia đình hóa cho tới hiện nay.
Chuyên mục do nhà phê bình Phan Cẩm Thượng thực hiện, xuất hiện vào số Chủ nhật hàng tuần.
3. Trong một văn bản tại hội nghị giải quyết những bất đồng liên quan đến thuật ngữ Ki tô giáo bằng tiếng Việt, do Quyền Giám sát dòng Tên hai vùng Trung Nhật triệu tập tại Macao năm 1645, hội nghị có đưa ra mô thức rửa tội bằng tiếng Việt có câu như sau: Tau rữa mâi nhân danh Cha uà  Con, uà spirito santo - Tao rửa mày nhân danh Cha và Con, và spirito santo (Tham khảo từ cuốn Dinh trấn Thanh Chiêm Quảng Nam, Đinh Trọng Tuyến và Đinh Bá Truyền biên soạn). Trong hội nghị này có 35 giáo sỹ, 31 phiếu thuận, 2 phiếu trắng và 2 phản đối trong đó có Alexandre de Rhodes, nhưng nghị quyết vẫn được thông qua. Ở đây ta thấy việc xưng hộ giữa cha xứ và con chiên được nói bằng hai ngôi tau (tao) và mâi  (mi, mày). Nếu ngày nay một đức cha mà xưng mày, tao với con chiên trong nhà thờ thì quả không ổn, nhưng điều đó cho thấy có thời việc xưng hô hai ngôi đơn giản là rất phổ biến ở Đàng Trong, nhất là xứ Quảng Nam, nơi cha Francissco de Pina (? – 1625) được coi là người đầu tiên dùng chữ Latin phiên âm tiếng Việt.
 (còn tiếp)
Phan Cẩm Thượng

Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2012

Tiêu chuẩn 22TCN 248-98 thiết kế thi công nghiệm thu Vải ĐKT trên nền đất yếu


TIÊU CHUẨN NGÀNH


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

VẢI ĐỊA KỸ THUẬT TRONG XÂY DỰNG NỀN ĐẮP TRÊN ĐẤT YẾU

Tiêu chuẩn thiết kế thi công và nghiệm thu
22TCN 248-98
Bộ Giao thông vận tải
Có HIỆU LỰC TỪ 5/9/1998

I.Các quy đỊnh chung
1.1. Phạm vi áp dụng: Tiêu chuẩn này được áp dụng cho tính toán thiết kế, thi công và nghiệm thu công trình ứng dụng vải địa kỹ thuật trong xây dựng nền đất đắp trên đất yếu. Nội dung thiết kế chỉ quy định việc chọn vải, những tính toán cần thiết co việc xác định vị trí đặt vải và số lớp vải để tăng cường mức độ ổn định của nền đắp trên nền đất yếu; còn các vấn đề tính toán về lún, về thấm lọc , bảo vệ và gia cường mái dốc không quy định ở đây.
1.2. Vải địa kỹ thuật đặt giữa nền đất yếu và nền đắp làm chức năng  tăng cường ổn định cho nền đất đắp đồng thời tạo hiệu ứng để đầm chặt đất đắp.
Việc sử dụng vải địa kỹ thuật để làm chức năng nói trên không phải là điều bắt buộc mà chỉ là một giải pháp, một phương án đưa ra để so sánh về kinh tế kỹ thuật với các phương án xử lý khác, khi việc kiểm toán ổ định trong điều kiện trực tiếp nền đắp trên nền đất yếu không đạt yêu cầu như nói ở điểm 2.2.1.1. Đất yếu ở đây chỉ loại đất sét, hoặc á sét có độ sệt B>0.5 hoặc đất đầm lầy than bùn ( lượng hữu cơ chiếm trên 20%) hay bùn cát có độ bảo hòa G>0.8.
1.3 Để thiết kế xử lý đất yếu bằng vải địa kỹ thuật cần khảo sát thu thập các số liệu sau:
- Khảo sát địa chất công trình theo 22 TCN 82-85 nhằm cung cấp chính xác phạm vi chiều dầy và các chỉ  tiêu đặc trưng của đất yếu.
- Điều tra vật liệu xây dựng công trình như : vật liệu đắp, tính năng vải và máy móc xây dựng.
- Quy mô công trình, thời gian thi công và tiến độ thi công công trình.
          1.4. Ngoài việc thực hiện các yêu cầu của tiêu chuẩn này, các đơn vị tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát và thi công phải tuân thủ các quy định hiện hành khác trong khảo sát thiết kế và thi công xây dựng nền đường nói chung.
II. Tính toán thIẾT KẾ
2.1. Thiết kế cấu tạo
2.1.1 Bố trí vải địa kỹ thuật khi xây dựng nền đắp trên nền đất yếu thực hiện như sau:
2.1.2 Khi sử dụng vải địa kỹ thuật làm lớp phân cách thường trải một lớp trên nền đất yếu. Lớp đất đắp đầu tiên trên vải dùng vật liệu thoát nước cát hạt trung có các yêu cầu sau:
- Tỷ lệ hạt lớn hơn 0.25mm phải chiếm trên 50%.
- Tỷ lệ hạt nhỏ hơn 0.14mm không quá 10%.
- Hàm lượng hữu cơ không quá 5%.
2.1.3 Khi sử dụng vải địa kỹ thuật với chức năng gia cường thì dùng hai hoặc nhiều lớp tùy thuộc và các tính toán ở mục 2.2, Khoảng cách giữa hai lớp vải tối thiểu 0.3m. Vật liệu đắp giữa hai lớp vải đầu tiên cũng dùng cát hạt trung như quy định ở mục 2.1.2.
2.2 Tính toán thiết kế
Tính toàn thiết kế phải tuân thủ tiêu chuẩn thiết kế đường ô tô TCVN 4054-98 hoặc tiêu chuẩn đường ô tô cao tốc TCVN 5729-97, quy trình thiết kế” Khảo sát thiết kế nền đường qua vùng đất yếu” hiện hành. Ngoài ra khi dùng vải với chức năng gia cường phải tính toán thêm các vấn đề sau:
2.2.1 Tính toán ổn định công trình
2.2.1.1 Tính toán ổn định trượt sâu với hệ số ổn định được quy định
Kmin >=1.2 theo phương pháp phân mảnh cổ điển
K = (Mômen giữ +NY/Mômen gây truợt)
N phải được giới hạn bởi các điều kiện sau:
N<=Nmax/k
Trong đó:    Nmax là cường độ chịu kéo đứt lớn nhất của vải lúc đem dùng.
                             k:  là hệ số lấy bằng 2.0 nếu dùng vải polyeste và lấy bằng 5.0 nếu dùng vải polypropylen hoặc polyetylen.
N≤  g. hi.f                        (2-3)
                       
N≤  gw. hi.f                      (2-4)
          Điều kiện (2-3), (2-4) là để đảm bảo lực kéo có hiệu ( cho phép) của vải phải nhỏ hơn lực ma sát phát sinh giữa mặt trên của vải với đất đắp cả ở vùng hoạt động (1) và vùng bị động (2)
          Trong đó: f là hệ số ma sát tính toán ( đã xét đến hệ số an toàn bằng 1.5) giữa đất đắp và vải:
                             f = 4/9 tgj                                (2-5).
                             Với    j :     là góc nội ma sát của đất đắp
                                      hi:      chiều cao của đất đắp trên vải ( thay đổi theo dạng taluy; trong phạm vi bề rộng đỉnh nền đường hi= h chiều cao nền đắp).
2.2.1.3 Kiểm toán điều kiện ổn định trượt đất đắp trên vải địa kỹ thuật theo công thức sau:
                                       Fa < F                                      (2-6).
Trong đó:
Fa: lực đẩy tính theo công thức
Fa= ½ Ka. gw. h2                                      (2-7)
Với  gw: dung trọng đất đắp
                    h : chiều cao nền đắp.
                    Ka: Hệ số áp lực chủ động Kankin.
                    Ka = (1-sinj)/(1-cosj).
                    j :     là góc nội ma sát của đất đắp.
F: Lực ma sát giữa đất đắp và mặt vải địa kỹ thuật ( lực giữ). Bỏ qua lực dính giữa đất đắp và vải thì:
                             F=G. f
          Trong đó:    f được xác định như công thức (2-5)
                             G trọng lượng khối đất đắp trong phạm vi mái dốc rộng.
          Việc khống chế  tốc độ đất đắp nền trên đất yếu ( có vải địa kỹ thuật tăng cường) được thực hiện được như sau:
          Phải bố trí mốc quan trắc lún và mốc quan trắc biến dạng ngang. Tối thiều mỗi công trình phải bố trí 8 trắc ngang quan tr8a1c lún và 10m dài 1 mốc quan trắc biến dạng ngang. Nếu
                    + Lún <= 1cm/ ngày
                    + Chuyển vị ngang <= 5mm/ ngày
Thì tiếp tục đắp . Nếu lún và chuyển vị ngang quá tiêu chuẩn trên thì tạm ngừng đắp để theo dõi, nếu thấy biến dạng không tiếp tục vta8ng thêm nữa thì cho đắp tiếp.
2.2.2. Tính toán lựa chọn vải
2.2.2.1. Chọn loại vải, số lớp vải theo mục đích gia cường phải dựa trên cơ sở tính toán ở mục 2.2.1. và không trái với yêu cầu nêu ở mục 3.1.1.
2.2.2.2. Chiều rộng trải vải địa kỹ thuật khi thiết kế phải lớn hơn chiều rộng của nền đường ít nhất là 1 m để cuốn phủ lên lớp thứ nhất của lớp cát thoát nước ngang ( thay thế tầng lọc ngược hai bên nền đường).
III. THI CÔNG, KIỂM TRA, NGHIỆM THU CÔNG TRÌNH
3.1 Yêu cầu đối với vật liệu xây dựng
3.1.1 Vải địa kỹ thuật: vải địa kỹ thuật dùng để tăng cường ổn định nền đắp trên đất yếu, phải đảm bảo có các chỉ tiêu sau đây:
- Cường độ chịu kéo giật không dưới 1.8kN ( ASTM D 4632)
- Độ giãn dài: ≤ 65% ( ASTM D 4632)
- Khả năng chống xuyên thủng (CBR): 1500 – 5000N ( BS 6906-4)
- Đường kính lỗ lọc f90  ≤ 0.15mm ( ASTM D 4751).
- Vải địa kỹ thuật phải được bảo quản cẩn thận, tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng quá 3 ngày.
3.1.2. Chỉ khâu vải phải là chỉ chuyên dùng có đường kính 1-1.5mm, cuờng độ chịu kéo đứt 40K/ 1 sợi chỉ.
3.1.3. Lớp cát đắp trên vảipha3i là cát hạt trung, có các yêu cầu như mục 2.1.1.
3.1.4. Ngoài máy móc thiết bị dùng trong xây dựng đường phải có máy khâu chuyên dùng để khâu vải địa kỹ thuật.
Máy khâu vải phải là máy khâu chuyên nghiệp có khoảng cách mũi chỉ từ 7 đến 10mm.
3.2. Công nghệ thi công
3.2.1. Thiết kế truớc khi sơ đồ trải vải làm việc của máy khâu vải theo nguyên tắc tổng chiều dài đường khâu ngắn nhất. Khi sử dụng vải với mục đích gia cường thì rải vải theo hướng thẳng góc với tim đường.
3.2.2. Chuẩn bị mặt bằng trước khi trải vải địa kỹ thuật
- Bơm hút nước hoặc tháo khô nền đường toàn bộ diện tích rải vải địa kỹ thuật.
- Dọn sạch gốc cây, cỏ rác và các vật liệu khác
- Đào đất đến cao độ thiết kế trải vải.
- San phẳng đất nền trước khi trải vải
3.2.3 Trải và nối vải địa kỹ thuật ( các bước thi công xem hình vẽ)
Sau khi tạo mặt bằng, tiến hành trải vải và nối vải. Việc nối vải phải tiến hành bằng máy khâu (được giới thiệu trong hình vẽ). Đường khâu cách biên 5-15cm: khoảng cách mũi chỉ là 7-10mm.
3.2.4 Đắp đất trên vải
- Sau khi trải vải xong sẽ tiến hành đắp lớp đầu tiên trên vải địa kỹ thuật bằng cát hạt trung quy định tại điều 2.1.2. Nếu nền quá yếu, có thể đắp lớp đầu tiên dày 50cm.
- Sau khi san vật liệu tiến hành lu bằng xe bánh xích, sau đó tiến hành lu bằng xe bánh lốp và tải trọng tăng dần để đạt độ chặt theo yêu cầu.
- Từ lớp đắp thứ 2 thi công và kiểm tra bình thường như thi công nền đường.
3.2.5. Trong quá trình thi công không được để máy thi công di chuyển trực tiếp trên mặt vải địa kỹ thuật.
3.3 Kiểm tra và nghiệm thu
3.3.1 Kiểm tra trước khi thi công bao gồm công tác kiểm tra mặt bằng thiết bị, vật liệu theo yêu cầu ở 3.1.
- Nghiệm thu kích thước hình học và cao độ nền thiên nhiên khi trải vải có sự chứng kiến của tư vấn giám sát.
- Đối với vải địa kỹ thuật phải thi nghiệm kiểm tra các chỉ tiêu nói ở điểm 3.1.1. Khối lượng kiểm tra 10.000m2/ 1 mẫu hoặc khi thay đổi lô hàng nhập.
- Kiểm tra máy khâu và chỉ khâu vải địa kỹ thuật theo yêu cầu của điểm 3.1.2 và 3.1.4.
3.3.2 Kiểm tra trong khi thi công:
- Kiểm tra sự tiếp xúc của vải địa kỹ thuật với nền, không được gập và phần thừa mỗi bên để cuốn lên theo quy định ở điều 2.3.3.
- Cát đắp trên vải làm lớp thoát nước kiểm tra theo điểm 2.1.1. Khối lượng kiểm tra 1.000m3/1 mẫu.
- Kiểm tra các mối nối vải bằng mắt, khi phát hiện đường khâu có lỗi phải khâu lại đảm bảo theo điều 3.2.3.
- Kiểm tra độ chặt nền đất đắp theo quy trình thi công nền đường hiện hành.
3.3.3 Kiểm tra nghiệm thu khi thi công
Tiến hành như quy trình thi công nền đường hiện hành.
4. Công nghệ thi công

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

PVC Chống thấm đàn hồi


SIKA WATER BARS –
BĂNG PVC CHỐNG THẤM ĐÀN HỒI
          Cấu tạo
Được chế tạo từ PVC chịu nhiệt đàn hồi. Sản phẩm được thiết kế để chặn nước thấm qua khe co giãn và qua mạch ngừng trong kết cấu bê tông.
Có đủ dạng, đủ kích cỡ phù hợp với tất cả nhu cầu thi công.
Các ứng dụng
Dùng để trám các khe co giãn và qua mạch ngừng trong các kết cấu sau:
- Tầng hầm
- Bể chứa nước
- Nhà máy xử lí nước thải
- Hồ bơi
- Tường chắn
- Hố thang máy
- Đường hầm, cống
- Hầm
Ưu điểm
- Tính năng trám kín có hiệu quả ngay sau khi bê tông bắt đầu đóng rắn
- Bề mặt có nhiều gai có tác dụng ngăn chặn sự xâm nhập của nước
- Có thể hàn dễ dàng tại công trường
- Kháng hoá chất tốt
- Có nhiều dạng khác nhau cho các khe nối khác nhau
Thông tin sản phẩm
- Dạng/ màu: băng đàn hồi/ vàng / xanh
- Đóng gói: cuộn 20m

Ảnh số 1 B&abreve;ng chống thấm PVC &dstrok;àn hồi TPseal cho bê tông

Thứ Năm, 3 tháng 5, 2012

Các sản phẩm địa kỹ thuật


VẢI  ĐỊA  KỸ  THUẬT
I. Cấu tạo:
Vải địa kĩ thuật được chế tạo từ những sản phẩm phụ của dầu mỏ, từ một hoặc hai loại polymer (polyamide) như polyester và/hoặc polypropylen. Tùy theo hợp chất và cách cấu tạo, mỗi loại vải địa kĩ thuật có những đặc tính cơ lí hóa như sức chịu kéo, độ dãn, độ thấm nước, môi trường thích nghi v.v…khác nhau.
Hầu hết các sản phẩm có mặt tại Việt Nam đều được chế tạo bằng polyester và polypropylen. Vải địa kĩ thuật được chia làm ba nhóm chính dựa theo cấu tạo sợi: dệt, không dệt và vải địa phức hợp.
* Nhóm dệt gồm những sợi được dệt ngang dọc giống như vải may, như vải địa kĩ thuật loại dệt polypropylen. Biến dạng của nhóm này thường được thí nghiệm theo 2 hướng chính: hướng dọc máy, viết tắt MD (machine direction) và hướng ngang máy, viết tắt CD (cross machine derection). Sức chịu kéo theo hướng dọc máy bao giờ cũng lớn hơn sức chịu kéo theo hướng ngang máy. Vải dệt thông thường được ứng dụng làm cốt gia cường cho các công tác xử lí nền đất khi có yêu cầu.
* Nhóm không dệt  gồm những sợi ngắn và sợi dài liên tục, không theo một hướng nhất định nào, được liên kết với nhau bằng phương pháp hóa (dùng chất dính), hoặc nhiệt (dùng sức nóng) hoặc cơ (dùng kim dùi).
* Nhóm vải phức hợp là loại vải kết hợp giữa vải dệt và không dệt. Nhà sản xuất may những bó sợi chịu lực (dệt) lên trên nền vải không dệt để tạo ra một sản phẩm có đủ các chức năng của vải dệt và không dệt.
II. Ứng dụng sử dụng vải địa kỹ thuật
Trong giao thông vải địa kĩ thuật có thể làm tăng độ bền, tính ổn định cho các tuyến đường đi qua những khu vực có nền đất yếu như đất sét mềm, bùn, than bùn…Trong thủy lợi, dùng che chắn bề mặt vách bờ bằng các ống vải địa kĩ thuật độn cát nhằm giảm nhẹ tác thủy động lực của dòng chảy lên bờ sông. Còn trong xây dựng, dùng để gia cố nền đất yếu ở dạng bấc thấm ứng dụng trong nền móng…
Người ta chia ứng dụng vải địa kĩ thuật thành 3 loại: phân cách, gia cường, và tiêu thoát và lọc ngược.
III. Lợi ích khi sử dụng vải địa kĩ thuật
* Cho phép tăng cường lớp đất đắp bằng việc tăng khả năng tiêu thoát nước.
* Giảm chiều sâu đào vào các lớp đất yếu.
* Giảm độ dốc mái lớp đất đắp yêu cầu và tăng tính ổn định của chúng.
* Giữ được tốc độ lún đều của các lớp đất, đặc biệt trong vùng chuyển tiếp.
* Cải thiện các lớp đất đắp và kéo dài tuổi thọ công trình.
IV.Các tiêu chuẩn thiết kế với vải địa kĩ thuật
Với những ứng dụng mà vải địa có những chức năng chính là phân cách, tiểu biểu như các loại đường có và không có tầng mặt cấp cao. Với các đê đập cao khi mà các chức năng chính là gia cường và phân cách thì vải địa cần phải có cường độ chịu kéo đủ cao. Thêm nữa, vải phải chịu được ứng suất thi công đồng thời phải bảo đảm tính chất tiêu thoát và lọc ngược tốt.
Các tiêu chuẩn chính cho việc lựa chọn vải là:
1. Vải có khả năng chống hư hỏng trong thi công và lắp đặt
Để có khả năng phân cách hiệu quả, vải địa kĩ thuật phải đảm bảo không bị chọc thủng trong quá trình thi công như bị thủng bởi các vật liệu sắc cạnh như sỏi, đá và vật cứng xuyên thủng, hoặc lớp đất đắp không đủ dày trong khi đổ đất. Với trường hợp sau, chiều dày thiết kế tối thiểu của lớp đắp cần phải được duy trì trong suốt quá trình thi công. Để ngăng ngừa vải bị chọc thủng trong thi công, người ta thường tính toán các thông số sau để xác định tính kháng chọc thủng sau:
Chiều dày lớp đất đắp đầu tiên trên mặt vải, phụ thuộc vào giá trị CBR của đất nền bên dưới lớp vải địa.
Sự hiện hữu của vật cứng, sỏi, đá trong đất đắp đặc biệt là đối với đất lẫn sạn sỏi.
Loại thiết bị thi công, tải trọng và diện tích tiếp xúc của bánh xe và từ đó gây ra áp lực tác dụng tạo cao trình mặt lớp vải.
Lực kháng xuyên thủng của vải địa có thể xác định dựa theo điều kiện cân bằng lực:
Fvert=π.dh.hh.P
Trong đó:
dh :    đường kính trong bình của lỗ thủng.
hh :    độ lún xuyên thủng lấy bằng dh.
P   :   áp lực do tải trong bánh xe tác dụng ở cao trình lớp vải.
`Hoặc có thể xác định lực kháng xuyên thủng theo phương pháp AASHTO:
Từ các thông số về cường độ CBR của nền, áp lực tác dụng của bánh xe và chiều dày lớp đất đắp sau khi đầm nén sẽ xác định được yêu cầu về độ bền của vải thuộc loại cao (H) hay trung bình (M). Từ mức độ yêu cầu về độ bền (H hoặc M), người ta có thể chọn cường độ kháng chọc thủng yêu cầu.
2. Vải có các đặc điểm thích hợp về lọc ngược và thoát nước
Hai tiêu chuẩn để đánh giá về đặc trưng lọc ngược là khả năng giữ đất và hệ số thấm của vải. Vải địa cần phải có kích thước lỗ hổng đủ nhỏ để ngăn chặn không cho các loại hạt đất cần bảo vệ đi qua, đồng thời kính thước lỗ hổng cũng phải đủ lớn để có đủ khả năng thấm nước bảo đảm cho áp lực nước kẽ rỗng được tiêu tán nhanh.
3. Độ bền cao khi tiếp xúc với ánh sáng
Tất cả các loại vải địa kỹ thuật đều bị phá huỷ khi phơi dưới ánh sáng mặt trời. Do trong quá trình xây dựng vải địa kĩ thuật bị phơi trong một thời gian dài dưới ánh sáng nên cần sử dụng loại vải có độ bền cao khi tiếp xúc với ánh sáng.



Image



Image






Image



Image


Image



VẢI ĐỊA KỸ THUẬT KHÔNG DỆT
Cấu tạo
Vải địa kỹ thuật không dệt được cấu tạo từ những sợi ngắn (100% polypropylene hoặc 100% polyester), không theo một hướng nhất định nào, được liên kết với nhau bằng phương pháp (dùng chất dính), hoặc nhiệt (dùng sức nóng) hoặc cơ (dùng kim dùi).
Hiện Công ty Hiệp Phát có phân phối các nhãn hàng HD của Haicatex, ART của Aritex, TS của TenCate và VNT của VNT
Ứng dụng
Vải địa kỹ thuật không dệt ứng dụng vào các công trình giao thông, thủy lợi, môi trường góp phần làm giảm giá thành dự án. Lợi dụng các tính chất đặc biệt của Vải địa kỹ thuật không dệt, có thể đưa vào thực tế công trình để thực hiện:
-  Chức năng phân cách: Lớp vải địa kỹ thuật dùng để ngăn cách giữa hai lớp vật liệu có kích thước hạt khác nhau, dưới tác động của ứng suất nhất là những ứng suất do các phương tiện vận chuyển tác động lên làm cho vật liệu hạt giữ nguyên vẹn các đặc tính cơ học của nó.
-  Chức năng gia cường: Vải địa kỹ thuật có tính năng chịu kéo cao. Người ta lợi dụng đặc tính chịu kéo này để truyền cho đất một cường độ chịu kéo nào đó theo kiểu gia cố cố cho đất hoặc chứa đất và các túi vải địa kỹ thuật
Chức năng bảo vệ: Ngoài độ bền cơ học như bền kéo, chống đâm thủng cao....Vải địa kỹ thuật còn có tính bền môi trường (chịu nước mặn) và kả năng tiêu thoát nước nhanh. Nên Vải địa kỹ thuật được kết hợp với các vật liệu khác như thảm đá, rọ đá, đá hộc, bê tông....để chế tạo lớp đệm chống xói cho đê, đập, bờ biển, trụ cầu...
Chức năng lọc: Lớp vải địa kỹ thuật đóng vai trò là lớp lọc được đặt giữa hai lớp vật liệu có độ thấm nước và cỡ hạt khác nhau, chức năng của lớp lọc là tránh sự xói mòn từ phía vật liệu có cỡ hạt mịn hơn vào lớp vật liệu thô.
-  Chức năng tiêu thoát nước: Khả năng thấm theo phương vuông góc với mặt phẳng vải địa kỹ thuật không dệt để chế tạo mương tiêu thoát nước ngầm. Dòng thấm trong đất sẽ tập trung đến rãnh tiêu có bố trí lớp vải bọc và dẫn đến khu tập trung nước bằng đường ống tiêu.




VẢI ĐỊA KỸ THUẬT DỆT

Cấu tạo
Gồm những sợi dọc và sợi ngang dệt lại giống như vải may mặc. Biến dạng của nhóm vải dệt thường được thí nghiệm theo 2 hướng chính: hướng dọc máy  (MD);  hướng ngang máy  (CD).
Hiện Công ty Hiệp Phát có phân phối các nhãn hàng : GSI, KM, MAC,PP
Ứng dụng
Với đặc tính cường lực chịu kéo và suất đàn hồi cao, khả năng lọc và thoát nước tốt, nên vải địa kỹ thuật dệt được lựa chọn cho các ứng dụng ổn định nền và gia cường mái dốc chống xói mòn, và được sử dụng trong các công trình giao thông đường bộ, đường sắt, cảng, sân bay, các khu vực bãi đỗ, kho hàng, khu vực bốc dỡ hàng, nhà xưởng công nghiệp, đê kè sông biển, hố chứa chất nhiễm bẩn, …
Gia cố nền đường đắp: Áp dụng trong trường hợp tăng ổn định cho đường đắp cao trên nền đất yếu, kháng cắt thấp. Với tính năng cường lực chịu kéo và ứng suất cao, các loại vải địa kỹ thuật dệt ngăn chặn và triệt tiêu các sụt trượt tiềm năng của phần đắp cao.
Khôi phục nền đất yếu: Các loại Vải địa kỹ thuật dệt được sử dụng như một biện pháp tiếc kiệm và hiệu quả để phục hồi các ô hay khu vực đất rất yếu như đầm pháp, ao bùn, với tính năng cường lực chịu kéo cao, độ giãn dài thấp, độ bền kéo mối ghép tốt.

Đệm nền có nhiều lỗ hổng: Các loại Vải địa kỹ thuật dệt được sử dụng phủ nền có nhiều lỗ trống, phần nền đá vôi, phần có nhiều vật liệu khối lổn nhổ...nhằm bảo vệ các lớp lót như màng chống thấm...
Liên kết cọc: Các loại Vải địa kỹ thuật dệt được sử dụng trải trực tiếp trên đầu cầu các cọc gai cố ổn định cho nền đất yếu (đường đắp cao, nhà xưởng, bồn bể trên nền đất yếu) đóng vai trò như tấm nhịp bắc cầu giữa các cọc giúp dàn đều tải trọng.
Chống xói mòn - lọc và tiêu thoát: Áp dụng trong các công trình như đê, đập, kênh mương thuỷ lợi, kè sông, biển nhằm giải quyết hai vấn đề: lọc tiêu thoát giúp giảm bớt áp lực thủy động từ bên trong bờ, mái dốc; và triệt tiêu bớt các năng lượng gây xói mòn như sóng, gió, mưa...

                            

           





LƯỚI ĐỊA KỸ THUẬT

1. Cấu tạo

Lưới địa kỹ thuật được làm bằng chất polypropylen (PP), polyester (PE) hay bọc bằng polyetylen-teretalat (PET) vói phương pháp ép và dãn dọc. Vật liệu dùng làm lưới địa có sức chịu kéo đứt rất lớn 40.000 psi (so với sắt là 36.000 psi)
Lưới địa được chia thành 3 nhóm:  lưới một trục,lưới hai trục, lưới ba trục,
Lưới một trục: có sức kéo theo hướng dọc máy, thường để gia cố mái dốc, tường chắn v.v.
Lưới hai trục: có sức kéo cả hai hướng, thường dùng để gia có nền đường, nền móng công trình v.v... Trái với vải, hướng ngang máy có sức chịu kéo lớn hơn dọc máy.
     Lưới địa kỹ thuật một trục                                      Lưới địa kỹ thuật hai trục

2. Đặc điểm chính

Lưới địa kỹ thuật một trục được sản xuất từ polietilen có tỷ trọng cao, HDPE (high density polyethylen) còn lưới hai trục làm bằng polietilen hoặc polipropilen hoặc cả hai. Các loại lưới địa kỹ thuật đều có những đặc điểm sau:
- Sức chịu kéo lớn không thua kém gì các thanh kim loại.
- Tính cài chặt với vật liệu chung quanh, tạo nên một lớp móng vững chắc, nhất là chống lại sự trượt của đất đắp dùng làm đê đập, tường chắn đất.
- Tính đa năng: hầu như thích hợp với mọi loại đất, đá.
- Giản dị: thi công dễ dàng, không cần máy móc,
- Lâu dài: ít bị hủy hoại bởi thời tiết, tia tử ngoại, bởi môi trường chung quanh như đất có axít, kiềm, và các chất độc hại khác.
Tác động môi trường
Miragrid bền với các tác động lý hoá của môi trường, ăn mòn thường thấy trong các khu vực cần xử lý nền đất yếu ( khai thác mỏ, bãi chôn lấp , vùng lấy, bến cảng .. ).
Đặc tính cơ bản
Hệ số dão thấp ( độ mỏi của vật liệu ) : 1.45 sau 120 năm
Biến dạng nhỏ hơn 11% ở tải trọng tối đa
Cường độ chịu kéo đến 800kN/m

3. Ứng dụng

  • Tường chắn trọng lực: Lưới được trải nằm ngang, liên kết với các tấm hoặc các khối ốp mặt ngoài nhằm chống lại các lực cắt của khối sụt trượt tiềm năng, và có thể xây các tường chắn cao tới 17 m với mái dốc đến 90 độ.
  • Mái dốc: Lưới được trải thành từng lớp nằm ngang trong thân mái dốc để tăng khả năng ổn định, khống chế sụt trượt. Mặt ngoài của mái dốc có thể được neo bằng chính lưới địa kỹ thuật hoặc chắn bằng các bao tải đất hoặc thảm thực vật nhân tạo chống xói mòn bề mặt. Mái dốc xây dựng theo phương pháp này có thể đạt tới độ cao 50 m.
  • Đường dẫn đầu cầu: Giống như tường chắn trọng lực, lưới được trải thành từng lớp ngang, neo giữa các tấm ốp mái ở hai mái đường dẫn đầu cầu, vừa tăng khả năng chịu tải đồng thời tiết kiệm không gian hai bên đường dẫn.
  • Liên kết cọc: Sau khi đóng cọc móng, lưới được trải trên các cọc, tạo ra một giàn đỡ truyền tải trọng từ các công trình bên trên tới tất cả các cọc một cách hiệu quả, đồng thời giúp tiết kiệm được số lượng cọc sử dụng.
  • Tạo lưới đỡ trên nền có nhiều hốc trống: Lưới được sử dụng phủ nền có nhiều hốc trống, phần nền đá vôi, phần nền có nhiều vật liệu khối lổn nhổn... hạn chế sụt lỗ rỗng, bảo vệ các lớp lót như màng chống thấm (ô chôn lấp rác, hồ chứa trên núi đá đồi, vùng mỏ, v.v.)
  • Tăng ma sát trên mái dốc: Nhằm tăng ma sát của vật liệu đắp trên mái dốc có trải các lớp màng chống thấm trơn hoặc vật liệu địa kỹ thuật khác.
Một số hình ảnh thi công lưới địa kỹ thuật.
                 Thi công mái dốc                                        Thi công gia cố nền đất yếu   


TÚI ĐỊA KỸ THUẬT GEOTUBE TECHNOLOGY
Những con đê, được đắp bằng đất luôn đòi hỏi những diện tích mặt bằng lớn và trong quá trình thi công một khối lượng đất đắp bị thất thoát đi đáng kể. Thực tế còn cho thấy chi phí bảo trì, tu bổ đã gây nhiều tốn kém khi xuất hiện them các yếu tố: nền đất yếu, mưa gây xói mòn, dòng chảy gây sạt lở...
Việc giảm khối lượng đất đắp, giảm diện tích mặt bằng sử dụng, giảm chi phí tu bổ bảo trì đồng thời nâng cao tuổi thọ của công trỉnh không chỉ mang lại hiệu quả mả còn là mục tiêu nghiên cứu của các kĩ sư.
Là những túi hình ống được thiết kế với kích thước khổng lồ,  vật liệu làm nên túi là từ vải địa kĩ thuật không dệt/ vải địa kĩ thuật phức hợp có độ bền kéo lớn, khả năng chống chọc thủng cao, trơ về mặt hóa học và tia tử ngoại. Các đường liên kết ghép nối của túi được thực hiện bằng một kĩ thuật đặc biệt để đảm bảo được điều kiện bơm thủy lực khắc nghiệt nhất.
Vật liệu  làm đầy túi địa kĩ thuật là cát , đất hoặc bùn, hỗn hợp đất và cát
Những đặc điểm của túi địa kĩ thuật "GEOTUBE"
  • Độ bền chịu kéo và chống chọc thủng cao.
  • Độ giãn dài thấp.
  • Độ thấm thoát nước cao.
  • Độ dài liên tục không hạn chế.
  • Tính linh hoạt cao.
  • Giảm khối lượng đất đắp.
  • Nâng cao tuồi thọ công trình và giảm thiểu chi phí bảo trì, tu bổ.
Những ứng dụng của túi địa kĩ thuật "GEOTUBE":
  • Cải tạo, phục hồi đê, đập đất.
  • Xây dựng đê quai, đê ngăn lũ.
  • Xây dựng đê bảo vệ, lấn biển.


MÀNG NHỰA CHỐNG THẤM HDPE
          Cấu tạo 
Vật liệu được sản xuất từ hạt HDPE nguyên thủy có phụ gia carbon đen chống lão hóa, kháng hoá chất, vi sinh tuyệt hảo có tuổi thọ thiết kế trên 50 năm.
Đặc tính
Hệ số thấm rất nhỏ, đạt 1x10-14cm/giây
Cường độ chịu kéo tới 80N/mm
Độ giãn dài >700%
Độ bền kháng chọc thủng tới 830N
Khả năng chống lão hóa cực tốt đạt độ bền đến trên 50 năm
Khả năng chịu tác động của môi trường, trơ bền với các hóa chất, thậm chí với các loại axit mạnh. Không bị tác động bởi nấm, vi khuẩn, mối. Có khả năng tuyệt hảo chống lão hóa bởi các tác động của thời tiết, khí hậu.
Ứng dụng
Lót đáy bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh: Sản phẩm có độ bền hàng trăm năm được sử dụng để lót đáy ô chôn lấp rác hợp vệ sinh theo quy trình tiêu chuẩn môi trường nhằm ngăn chặn nước rỉ rác nhiễm bẩn ra môi trường xung quanh
Phủ đóng bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh: Sản phẩm cũng được sử dụng để phủ đóng bãi chôn lấp rác một cách hợp vệ sinh, nhằm giải quyết các vấn đề môi trường như ngăn nước mưa, thu khí ga, ngăn mùi, chống ô nhiễm, v.v.
 Lót đáy và mái hồ nuôi thủy sản: đây là một biện pháp hiệu quả nhằm tạo ra một môi trường nuôi được kiểm soát và hợp vệ sinh, đồng thời chống xói mòn tiết kiệm chi phí vận hành, thuận tiện thu hoạch.
Màng phủ nổi: Các tấm HDPE với tỷ trọng 0.94 được phủ trên các hồ chứa các chất thải của khu chuồng trại chăn nuôi công nghiệp, hồ xử lý nước thải cho các nhà máy tinh bột sắn, giấy, rượu nhằm ngăn mùi, phát sinh dịch bệnh, chống ô nhiễm môi trường khí, thu khí bio-gas tái tạo ra nguồn năng lượng mới để đốt, phát điện phục vụ cho nhu cầu sử dụng năng lượng của chính nhà máy đó.
Lót đáy hồ chứa nước khu công nghiệp: màng HDPE được sử dụng để tạo ra khu vực hồ chứa nước được kiểm soát trong khu công nghiệp, giúp tạo ra nguồn nước ổn định hay khu chứa nước cô lập để xử lý với chi phí thấp. Chống thấm đê, đập, kênh mương, đường hầm . . .
Chống thấm đê, đập thủy điện, kênh mương hay các tunnel kỹ thuật, phát huy khả năng chống thấm và tính chất cơ lý tuyệt hảo của màng na
Lót đáy làm lớp chống thấm cho các nhà máy thải xỉ, nhà máy hoá chất, phân bón , ngăn các loại hoá chất độc hại thẩm thấu làm ô nhiễm nguồn nước ngầm
MÀNG CHỐNG THẤM ĐẤT SÉT
TỔNG HỢP BENTOMAT
Cấu tạo
Màng chống thấm Bentomat được tạo thành bởi một lớp đất sét tổng hợp(sodium bentonite ) kẹp giữa hai lớp vải địa kỹ thuật, sử dụng trong các ứng dụng môi trường, có tác dụng chống thấm nhỏ hơn từ 10-100 lần so với lớp đất sét luyện (đầm nén) dày 60-90cm. Ngoài ra còn có tấm đặc biệt được tráng phủ lớp nhựa ở một mặt có hệ số thấm nhỏ hơn từ 10 đến 1000 lần so với các tấm thông dụng.


Hai lớp áo bằng vải địa kỹ thuật có khả năng kháng các tác động hóa lý của môi trường, được dệt xuyên kim với nhau nhằm tăng khả năng gia cường ổn định nền móng và tăng khả năng kháng bóc tách để bảo vệ lớp bentonite.
Lớp đất sét tổng hợp có hệ số thấm rất nhỏ và hệ số trương nở gấp 15 lần khi ngậm nước, giúp hình thành một lớp chống thấm dạng keo có khả năng tự hàn các vết chọc thủng.
Đặc tính
Hệ số thấm rất nhỏ, ≤ 5x10-9cm/giây
Độ dày khô tổng cộng 6mm
Độ bền kháng chọc thủng tới 1600N
Khối lượng bentonite 3600g/m2 ( 0% độ ẩm )    
Ứng dụng
Lót đáy bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh: được sử dụng để lót đáy ô chôn lấp rác hợp vệ sinh theo quy trình tiêu chuẩn môi trường nhằm ngăn chặn nước rỉ rác nhiễm bẩn ra môi trường xung quanh.
Lót đáy ao, hồ, bồn bể chứa chất nhiễm bẩn: được sử dụng để lót đáy các hồ chứa chất bẩn bởi khả năng chống thấm tốt đồng thời giải quyết được vấn đề nền đất ở các khu vực này.
Phủ đóng bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh: được sử dụng để phủ đóng bãi chôn lấp rác một cách hợp vệ sinh, nhằm giải quyết các vấn đề môi trường như ngăn nước mưa, thu khí ga, ngăn mùi, chống ô nhiễm, v.v. đặc biệt phù hợp với lớp mái dốc bởi độ bền kéo cao và hệ số ma sát lớn.
Lót đáy các khu chứa quặng mỏ: cũng được sử dụng để lót đáy các khu vực chứa bùn mỏ, khu vực chứa quặng để xử lý, v.v. Ưu điểm nối bật của màng Bentomat là dễ dàng thi công trong các khu vực điều kiện thi công khó khăn, vùng núi, v.v.


Lót ao hồ giữ nước khu vui chơi giải trí: Với khả năng tự hàn và việc thi công đơn giản, đặc biệt phù hợp để chống thấm và lưu giữ nước các ao hồ khu vui chơi giải trí, ao cá cảnh, hồ sân golf.
Chống thấm đê, đập, kênh mương: được sử dụng để chống thấm đê, đập thủy điện, kênh mương thủy lợi, phát huy khả năng chống thấm của bentonite và khả năng kháng cắt của các lớp vải địa kỹ thuật.


BẤC THẤM

I. BẤC THẤM ĐỨNG
Cấu tạo
Bấc thấm là vật liệu địa kỹ thuật dùng để thoát nước nhằm gia tăng quá trình cố kết của nền móng, có cấu tạo hai lớp: lớp áo lọc gọi là lớp vỏ lọc bằng vải địa kỹ thuật không dệt chế tạo từ sợi  PP hoặc PET 100%, không thêm bất cứ chất kết dính nào và lớp lõi thoát nước đùn từ nhựa PP, có rãnh dẫn nước cả hai phía.
Ứng dụng
Gia cố nền đất yếu: Bấc thấm được sử dụng để xử lý gia cố nền đất yếu, trong thời gian ngắn có thể đạt tới 95% độ ổn định dài hạn, tạo khởi động cho quá trình ổn định tự nhiên ở giai đoạn sau. Quá trình cố kết có thể được tăng tốc bằng cách gia tải.
Ổn định nền: Các công trình có thể ứng dụng bấc thấm để xử lý nền đất yếu rất đa dạng, bao gồm đường cao tốc, đường dẫn đầu cầu, đường băng sân bay, đường sắt, bến cảng, kho xăng dầu... xây dựng trên nền đất yếu và có tải trọng động.
Xử lý môi trường: Bấc thấm được sử dụng để xử lý nền đất yếu, đất nhão thường thấy ở các khu vực ô chôn lấp rác. Bấc thấm cũng được sử dụng để tẩy rửa các khu vực đất bị ô nhiễm, bằng công nghệ hút chân không, hút nước ngầm thấm qua các lớp đất bị ô nhiễm, mang theo các chất ô nhiễm hoá tan trong nước lên bề mặt để xử lý.


Image

NHỮNG TÍNH NĂNG QUAN TRỌNG KHÁC
Khả năng chống chịu được với vi khuẩn bacteria và các loại vi khuẩn khác.
Không bị ăn mòn hay biến chất bởi các loại axit, kiềm hay các loại chất hoà tan có trong đất.
Khả năng chống mài mòn cực tốt.
II. BẤC THẤM NGANG`
Cấu tạo.
      Bấc thấm ngang có hình dạng và cấu tạo tương tự bấc thấm đứng thông thường, nhưng có kích thước lớn hơn.
      Bấc thấm ngang có có các loại mặt cắt ngang thông thường như sau: 8,0mm x 150 mm; 8,0mm x 200mm; 8,0mm x 300mm; 8,0mm x 600mm.
Cấu tạo bấc thấm ngang gồm 2 bộ phận chính, đó là:
    - Lõi bấc: Được cấu tạo thành các rãnh dùng để thoát nước, thường được chế tạo bằng Polyvinyl Chloride hoặc Polyolefin;
    - Lớp vỏ lọc: Dùng để thoát nước ra từ đất sau đó thông qua lõi bấc thoát nước ra khỏi đất nền, thường được chế tạo bằng Polyester(không dệt).
Image
Đặc tính bấc thấm ngang.
     -  Nước lỗ rỗng được hấp thụ qua lớp vải lọc và bản thoát nước chảy vào trong lõi bấc một cách êm thuận. Do đặc tính này ngang cả bâc thấm ngang được mở rông thì khả năng thoát nước vẫn được duy trì.
     - Đây là loại vật liệu có cường độ chịu kéo và độ dãn dài cao trong khi cố định tốc độ dịch chuyển tự do của lõi và lớp vải lọc. Do đó nó có thể biến dạng theo sự thay đổi của địa hình do lún cố kết.
- Bản thoát nước không chỉ nhẹ và dễ vận chuyển mà cũng không cần một vật liệu liên kết đặc biệt nào.
Ứng dụng. 
          - Loại đất: Áp dụng cho đất cát mịn, đất sét.
          - Tải trọng: Chịu tải trọng trên 250 kN/m2
- Vùng đắp: Thay thế cho lớp đệm cát và lớp cát lọc.
- Khu thể thao: Sân golf, bề mặt sân thể thao
- Các ứng dụng khác thay thế khối đắp, ngăn ngừa thấm
 Image
.

Image






RỌ ĐÁ (GABION)
Cấu tạo
Rọ đá được sản xuất từ dây thép dẻo (mild steel), mắc lưới lục giác, đan bằng máy, xoắn chặt 2 vòng kép bảo đảm lực căng yêu cầu tại nút xoắn mắc lưới.
Rọ đá  có 2 loại: loại dây mạ kẽm không bọc nhựa và lọai mạ kẽm có bọc nhựa PVC.
Tuỳ theo yêu cầu sử dụng, lớp mạ kẽm có chiều dày đặc biệt theo tiêu chuẩn BS 443:1982 (1990) hoặc có chiều dày thông thường theo tiêu chuẩn TCVN 2053:1993. Lớp bọc nhựa PVC có chiều dày tiêu chuẩn 0.5 mm.
Dây thép
Dây đan lưới, dây viền, và dây buộc là dây thép dẻo (mild steel), mạ kẽm theo phương pháp nhúng nóng, bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật như sau: (theo tiêu chuẩn BS 1052 : 1980 (1999)).
1. Cường độ chịu kéo: 38 - 52 kg/mm2
2. Độ giãn dài kéo đứt: ≥ 12 %,
3. Chiều dày mạ kẽm:
- Thông thường: 50 -> 65 g/m2 theo TCVN 2053:1993
- Đặc biệt: 220 đến 280 g/m2 , theo tiêu chuẩn BS 443:1982 (1990)
Lớp bọc nhựa PVC
Nguyên liệu hạt nhưa (PVC compound) dùng để sản xuất rọ đá  có phụ gia kháng tia cực tím và thỏa mản các tính chất kỹ thuật
Quy cách đan rọ và kích thước
Quy cách
- Mắt lưới: 60x80;80x100;100x120;120x150
- Mạ kẽm và bọc nhựa PVC 
- Dây đan: từ 2.2 mm -3.0mm
- Dây viền : từ 2.7mm - 4.5mm
Kích thước
- Rọ đá loại (2x1x1) :              vách ngăn và không vách ngăn
- Rọ đá loại (2x1x0.5) :           vách ngăn và không vách ngăn
- Rọ đá loại (1x1x0.5) :           vách ngăn và không vách ngăn
- Rọ đá loại (1x1x1) :              vách ngăn và không vách ngăn
- Rọ đá loại (0.7x0.7x0.5):      vách ngăn và không vách ngăn
- Rọ đá loại (5x1x0.5) :           1 vách ngăn và 4 vách ngăn
- Rọ đá loại (4x2x0.3) :           vách ngăn và không vách ngăn
- Rọ đá loại (4x2x0.5) :           vách ngăn và không vách ngăn
Ứng dụng
Rọ được sản xuất hoàn chỉnh tại nhà máy. Khi thi công, đá hộc được xếp đầy vào rọ tạo thành kết cấu đá hộc có khả năng chịu kéo tốt, chịu được biến dạng lớn, và có tính thấm nước cao, chuyên dùng để xây dựng các công trình phòng chống xói lở, bảo vệ bờ sông biển, xây dựng đập tràn, bể tiêu năng, mố cầu, tường chắn đất v.v.


 
         


RỌ ĐÁ NEO




THẢM ĐÁ
(GABION MATTRESS)

Thảm đá  gồm 2 loại: loại dây mạ kẽm và loại mạ kẽm có bọc nhựa PVC.
Tương tự như rọ đá, thảm đá có khả năng chịu kéo tốt, chịu được biến dạng lớn và có tính thấm nước cao, chuyên dùng để xây dựng các công trình phòng chống xói lở, bảo vệ bờ sông biển, lát mái kênh, bể tiêu năng, hố phòng xói, và có thể làm lớp gi cường dưới nền đường đắp trên nền đất yếu, v.v.
Dây thép:  Dây đan lưới, dây viền, và dây buộc là dây thép dẻo (mild steel), mạ kẽm theo phương pháp nhúng nóng, bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật như sau: (theo tiêu chuẩn BS 1052 : 1980 (1999)).
1. Cường độ chịu kéo: 38 - 52 kg/mm2
2. Độ giãn dài kéo đứt: ≥ 12 %,
3. Chiều dày mạ kẽm:
- Thông thường: 50 -> 65 g/m2 theo TCVN 2053:1993
- Đặc biệt: 220 đến 280 g/m2 , theo tiêu chuẩn BS 443:1982 (1990)
Lớp bọc nhựa PVC : Nguyên liệu hạt nhưa (PVC compound) dùng để sản xuất rọ đá  có phụ gia kháng tia cực tím
Quy cách đan thảm  và kích thước
-  Thảm đá (6x2x0.3) :   5 vách ngăn, 3 vách ngăn và không vách ngăn
- Thảm đá (6x2x0.23) : 5 vách ngăn, 3 vách ngăn và không vách ngăn
- Thảm đá (6x2x0.5) :    5 vách ngăn, 3 vách ngăn và không vách ngăn
- Thảm đá (4x2x0.5) :    3 vách ngăn, 2 vách ngăn và không vách ngăn
- Thảm đá (4x2x0.23) : 3 vách ngăn, 2vách ngăn và không vách ngăn
- Thảm đá (3x2x0.3) :    1 vách ngăn, 2 vách ngăn và không vách ngăn
- Thảm đá (3x2x0.23) : 1 vách ngăn, 2 vách ngăn và không vách ngăn
- Thảm đá (3x2x0.5) :    1 vách ngăn, 2 vách ngăn và không vách ngăn
Đồng thời chúng tôi còn  cung cấp các loại lưới thép B40; lưới thép bọc nhựa; lưới thép mạ kẽm theo yêu cầu.

Ảnh số 1 B&abreve;ng chống thấm PVC &dstrok;àn hồi TPseal cho bê tôngSIKA WATER BARS –
BĂNG PVC CHỐNG THẤM ĐÀN HỒI
          Cấu tạo
Được chế tạo từ PVC chịu nhiệt đàn hồi. Sản phẩm được thiết kế để chặn nước thấm qua khe co giãn và qua mạch ngừng trong kết cấu bê tông.
Có đủ dạng, đủ kích cỡ phù hợp với tất cả nhu cầu thi công.
Ứng dụng
Dùng để trám các khe co giãn và qua mạch ngừng trong các kết cấu sau:
- Tầng hầm
- Bể chứa nước
- Nhà máy xử lí nước thải
- Hồ bơi
- Tường chắn
- Hố thang máy
- Đường hầm, cống
- Hầm
Ưu điểm
- Tính năng trám kín có hiệu quả ngay sau khi bê tông bắt đầu đóng rắn
- Bề mặt có nhiều gai có tác dụng ngăn chặn sự xâm nhập của nước
- Có thể hàn dễ dàng tại công trường
- Kháng hoá chất tốt
- Có nhiều dạng khác nhau cho các khe nối khác nhau
Thông tin sản phẩm
- Dạng/ màu:        băng đàn hồi/ vàng / xanh
- Đóng gói:           cuộn 20m



GIẤY DẦU
Cấu tạo : Giấy dầu được chế tạo từ
          - Nhựa đường 
- Giấy Karat
- Bột đá
- Mành chịu cơ tính
- Một số phụ gia khác
 Ứng dụng :
Sử dụng rộng rãi trong công trình dân dụng và công nghiệp,  Chống thấm mặt cầu, chống thấm sân bay, khu công nghiệp,công trình cầu đường, tòa nhà ... là vật liệu lót dưới cho kết cấu bê tông như: đường bê tông xi măng, mái nhà xưởng, nền nhà, nhà chung cư cao tầng ...
*  Mục đích sử dụng của lớp  giấy dầu trong kết cấu mặt đường BTXM
- Làm lớp tạo phẳng, giảm ma sát giữa lớp mặt và móng đường (tạo thuận lợi cho tấm bê tông xi-măng có thể dịch chuyển khi nhiệt độ thay đổi).
- Chống phun ngược của các mạch nước ngầm
- Tránh không cho lớp móng hút nước trong bê tông khi đang ninh kết làm giảm chất lượng bê tông.
- Làm lớp cách ly giữa lớp móng giảm ma sát (thường làm bằng cát dày 2-5cm) và lớp bê tông xi-măng mặt đường.
Quy cách              : Chiều rộng 1m, chiều dài 15m/cuộn nhỏ, 20m/cuộn to
Độ dầy                 : 0.2mm đến  0.8mm
Trạng thái             :  dạng cuộn