Ngày ấy, khi cô gái và chàng trai đang yêu nhau thắm thiết. Mỗi lần
gọi điện thoại, hai người chuyện trò tưởng chừng không bao giờ dứt. Cuối
cuộc gọi, luôn là cô gái gác máy trước, sau khi đã cố nấn ná, không
muốn nói lời tạm biệt, chàng trai lại từ từ cảm nhận hơi ấm còn vương
lại của giọng nói trong không trung, và một nỗi buồn man mác, vấn vương,
lưu luyến.
Sau đó, hai người chia tay không hiểu vì một lý do rất ngớ ngẩn nào đó.
Cô gái nhanh chóng có người yêu mới, một anh chàng đẹp trai, hào
nhoáng. Cô gái thấy rất mãn nguyện, và cũng rất đắc ý. Nhưng rồi về sau,
cô dần dần cảm thấy giữa hai người dường như thiêu thiếu một điều gì
đó, sự bất an đó khiến cho cô thấy như có một sự mất mát mơ hồ.
Là điều gì vậy nhỉ? Cô cũng không rõ nữa. Chỉ là khi hai người kết
thúc cuộc gọi, cô gái cảm thấy khi mình chưa kịp nói xong một nửa câu
“Hẹn gặp lại”, thì đầu dây bên kia đã vang lên tiếng “cạch” cúp máy.
Mỗi lúc như vậy, cô luôn thấy cái âm thanh chói tai đó như đóng băng
lại trong không trung, rồi xuyên vào trong màng nhĩ hay như mũi kim đâm
suốt vào tim.
Cô cảm thấy dường như người bạn trai mới giống như một cánh diều đứt
dây, đôi tay yếu ớt của mình sẽ không thể níu giữ được sợi dây vô vọng
đó.
Rồi cũng đến một ngày, hai người cãi nhau. Anh chàng đó chán nản,
quay người bỏ đi. Cô gái không khóc, mà cảm thấy như là được giải thoát.
Một hôm, cô gái chợt nhớ đến người yêu đầu tiên, bỗng thấy bùi ngùi:
Chàng “ngốc” đợi nghe cô nói xong câu “Tạm biệt”. Cảm xúc đó khiến cô
nhấc máy. Giọng của chàng trai vẫn chân chất, bình thản như xưa. Cô gái
thì chẳng thốt lên lời, luống cuống nói “Tạm biệt”
Lần này cô không gác máy, một xúc cảm khó gọi thành tên khiến cô im lặng lắng nghe sự tĩnh lặng của đầu dây bên kia.
Chẳng biết bao lâu sau đó, đầu dây bên kia vọng đến tiếng của chàng trai “Sao em không cúp máy?”.
Tiếng của cô gái như khản lại ” Tại sao lại muốn em cúp máy trước?”.
“Quen rồi”. Chàng trai bình tĩnh nói, “Anh muốn em cúp máy trước, như
vậy anh mới yên tâm”.
“Nhưng người cúp máy sau, thường cảm thấy nuối tiếc, như vừa để tuột
mất một điều gì.” Cô gái hơi run run giọng. “Vì vậy, anh thà nhận sự mất
mát đó, chỉ cần em vui là đủ.”
Cô gái không kìm nổi mình, bật khóc, những giọt nước mắt nóng hổi
thấm đẫm cả vùng kí ức tình yêu thuở nào. Cuối cùng, cô cũng hiểu ra
rằng, người không đủ kiên nhẫn để nghe cô nói hết câu cuối cùng, không
phải là người mà cả đời này cô mong đợi.
Hoá ra, tình yêu đôi khi thật giản đơn, chỉ một chút đợi chờ, đã có thể nói lên tất cả.
Bụi
Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012
Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012
Lẩm Cẩm Sự đời ???
Chỉ có thể đi cùng bạn một đoạn đường mà thôi.

Sau cơn mưa vào ngày xuân hôm ấy, người bạn tốt của tôi ngỏ lời từ giã. Tôi kiên trì đòi đưa bạn ấy ra đến trạm xe.

Bạn ấy ngăn cản tôi: (Tống quân thiên lý, chung hữu nhất biệt) Ðưa người ngàn dặm, cuối cùng rồi cũng cách biệt, dù thế nào đi nữa thì bạn cũng chỉ có thể đưa tôi đi chỉ một đoạn đường, thôi thì chỉ đưa tôi đến cửa thì ngừng bước nhé." Tôi đành tôn trọng theo ý kiến của bạn ấy.

Mỗi con người đều chỉ đan xen vào một đoạn trong cuộc sống của người khác. Ðiều chắc chắn vĩnh viễn là chỉ có thể đưa người đi cùng một đoạn đường.

Bạn thương yêu cha mẹ mình, hy vọng họ sống lâu trăm tuổi, nhưng trong lúc bạn đang rất hiếu thuận với cha mẹ mình, thì họ cũng sẽ rời xa trước mặt bạn, bạn cũng chỉ có thể đi cùng cha mẹ mình chỉ một đoạn đường mà thôi.

Bạn yêu thương con cái của mình ư, từng giờ khắc bạn mong rằng mình có thể vì chúng mà ngăn gió chắn mưa, vậy mà bạn đang lớn tuổi từng ngày, rồi cũng có một ngày, trước mặt các con bạn cũng phải bỏ chúng mà đi, bạn chỉ có thể cùng đi với con cái chỉ một đoạn đường.

Bạn có người vợ tâm đầu ý hợp, nhưng hai mươi mấy năm trước cô ấy thuộc về cha mẹ, vài mươi năm sau cô ấy cũng bị con cái, vận mệnh mà chia cách, bạn cũng chỉ có thể đi cùng với nàng chỉ một đoạn đường.

Bạn xem trọng trong tình nghĩa bạn bè, nhưng mà nếu không phải là bạn bè lìa xa bạn, thì cũng chính là bạn sẽ lìa xa bạn bè, bạn chỉ có thể cùng đi với bằng hữu một đoạn đường.

Cũng vì chỉ có thể cùng đi với nhau một đoạn đường, nên bạn càng thêm quí trọng tiếc thương.

Lúc mà người ta giá rét, thì sự giúp đỡ của bạn nên biến thành một cái áo bông.

Lúc mà người ta vui vẻ hạnh phúc, thì sự tươi cười của bạn đáng lẽ nên sáng lạn nhất

Lúc mà người ta gặp chuyện thương tâm, thì sự vỗ về an ủi của bạn đáng lẽ nên thật là chân thành thiết tha mới phải...

Cuộc đời vốn dĩ lập đi lập lại những ấn chứng: Ban đêm thì có thể vì việc thêm vào cái lồng lửa mà có được ánh sáng. Việc đẩy lùi tuyết lạnh không vì sự tham dự của gió lạnh mà hóa thành ấm áp.

Bởi vì chỉ có thể cùng người ta đi chỉ một đoạn đường, bạn đáng lẽ cũng nên học cách từ bỏ.

Cha mẹ chỉ có thể vỗ về nuôi nấng bạn trưởng thành, không nên kỳ vọng cha mẹ là cái quải trượng (cây gậy) vĩnh viễn của bạn, để có thể chống đỡ toàn bộ cuộc đời của bạn.

Con cái cũng chỉ là cùng liên quan huyết nhục với bạn, chứ không phải là vật phẩm phụ thuộc của bạn. Bạn cần phải biết tôn trọng sự lựa chọn cuộc đời của chúng.

Vợ con vì bạn mà cung phụng dâng hiến hết tình ái, nhưng sinh mệnh của nàng không phải là vật phẩm thế chấp của ái tình, nên dành cho nàng những khoảng không gian riêng tư cần thiết.

Bằng hữu có thể cho bạn sự ấm áp, nhưng loại ấm nồng này là loại tình cảm mở, bạn không thể cưỡng hành độc chiếm tình hữu nghị của người khác...

Bạn chỉ là người khách qua đường trong cuộc đời của người khác, chỉ có thể cùng người đi cũng chỉ một đoạn đường đời. Ðiều đó chính là tính hữu hạn mà bạn cho người khác, vậy thì làm sao có thể mong cầu người khác cho đi sự vô hạn được?

Chỉ có thể đi cùng bạn một đoạn đường mà thôi.


Sau cơn mưa vào ngày xuân hôm ấy, người bạn tốt của tôi ngỏ lời từ giã. Tôi kiên trì đòi đưa bạn ấy ra đến trạm xe.

Bạn ấy ngăn cản tôi: (Tống quân thiên lý, chung hữu nhất biệt) Ðưa người ngàn dặm, cuối cùng rồi cũng cách biệt, dù thế nào đi nữa thì bạn cũng chỉ có thể đưa tôi đi chỉ một đoạn đường, thôi thì chỉ đưa tôi đến cửa thì ngừng bước nhé." Tôi đành tôn trọng theo ý kiến của bạn ấy.

Mỗi con người đều chỉ đan xen vào một đoạn trong cuộc sống của người khác. Ðiều chắc chắn vĩnh viễn là chỉ có thể đưa người đi cùng một đoạn đường.

Bạn thương yêu cha mẹ mình, hy vọng họ sống lâu trăm tuổi, nhưng trong lúc bạn đang rất hiếu thuận với cha mẹ mình, thì họ cũng sẽ rời xa trước mặt bạn, bạn cũng chỉ có thể đi cùng cha mẹ mình chỉ một đoạn đường mà thôi.

Bạn yêu thương con cái của mình ư, từng giờ khắc bạn mong rằng mình có thể vì chúng mà ngăn gió chắn mưa, vậy mà bạn đang lớn tuổi từng ngày, rồi cũng có một ngày, trước mặt các con bạn cũng phải bỏ chúng mà đi, bạn chỉ có thể cùng đi với con cái chỉ một đoạn đường.

Bạn có người vợ tâm đầu ý hợp, nhưng hai mươi mấy năm trước cô ấy thuộc về cha mẹ, vài mươi năm sau cô ấy cũng bị con cái, vận mệnh mà chia cách, bạn cũng chỉ có thể đi cùng với nàng chỉ một đoạn đường.

Bạn xem trọng trong tình nghĩa bạn bè, nhưng mà nếu không phải là bạn bè lìa xa bạn, thì cũng chính là bạn sẽ lìa xa bạn bè, bạn chỉ có thể cùng đi với bằng hữu một đoạn đường.

Cũng vì chỉ có thể cùng đi với nhau một đoạn đường, nên bạn càng thêm quí trọng tiếc thương.

Lúc mà người ta cơ nhỡ đói rách, sự quan tâm của bạn nên trở thành một quả táo

Lúc mà người ta giá rét, thì sự giúp đỡ của bạn nên biến thành một cái áo bông.

Lúc mà người ta vui vẻ hạnh phúc, thì sự tươi cười của bạn đáng lẽ nên sáng lạn nhất

Lúc mà người ta gặp chuyện thương tâm, thì sự vỗ về an ủi của bạn đáng lẽ nên thật là chân thành thiết tha mới phải...

Cuộc đời vốn dĩ lập đi lập lại những ấn chứng: Ban đêm thì có thể vì việc thêm vào cái lồng lửa mà có được ánh sáng. Việc đẩy lùi tuyết lạnh không vì sự tham dự của gió lạnh mà hóa thành ấm áp.

Bởi vì chỉ có thể cùng người ta đi chỉ một đoạn đường, bạn đáng lẽ cũng nên học cách từ bỏ.

Cha mẹ chỉ có thể vỗ về nuôi nấng bạn trưởng thành, không nên kỳ vọng cha mẹ là cái quải trượng (cây gậy) vĩnh viễn của bạn, để có thể chống đỡ toàn bộ cuộc đời của bạn.

Con cái cũng chỉ là cùng liên quan huyết nhục với bạn, chứ không phải là vật phẩm phụ thuộc của bạn. Bạn cần phải biết tôn trọng sự lựa chọn cuộc đời của chúng.

Vợ con vì bạn mà cung phụng dâng hiến hết tình ái, nhưng sinh mệnh của nàng không phải là vật phẩm thế chấp của ái tình, nên dành cho nàng những khoảng không gian riêng tư cần thiết.

Bằng hữu có thể cho bạn sự ấm áp, nhưng loại ấm nồng này là loại tình cảm mở, bạn không thể cưỡng hành độc chiếm tình hữu nghị của người khác...

Bạn chỉ là người khách qua đường trong cuộc đời của người khác, chỉ có thể cùng người đi cũng chỉ một đoạn đường đời. Ðiều đó chính là tính hữu hạn mà bạn cho người khác, vậy thì làm sao có thể mong cầu người khác cho đi sự vô hạn được?

Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012
Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012
CÔNG
NGHỆ GIA CỐ NỀN ĐẤT NeowebTM
Công nghệ gia cố nền đất nói riêng hay thiết kế móng
nói chung ở nước ta đang trong quá trình phát triển mạnh cùng với xu thế chung
của ngành xây dựng cũng như nền kinh tế thị trường
Việc phát triển và đa
dạng hóa kỹ thuật công nghệ xây dựng là điều tất yếu. Ở các nước phát triển dù
đã khá hoàn thiện về công nghệ thi công nền móng công trình nhưng việc thiết kế
móng và gia cố nền đất vẫn rất được chú trọng nghiên cứu vì nó là một phần vô
cùng quan trọng của thiết kế thi công xây dựng công trình.
Trong những năm gần đây
do điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng, các công nghệ xây dựng xâm nhập vào
Việt Nam ngày càng nhiều. Chúng ta vẫn chưa có bước đột phá về công tác thiết
kế sáng tạo trong thi công xây dựng, chưa đáp ứng đủ cho sự phát triển của các
công trình xây dựng ngày càng lớn mạnh. Vậy nhập và chuyển giao công nghệ là
một bước đi phù hợp và khả thi với chúng ta trong thời điểm hiện nay.
Đối với nước ta và đặc biệt là với các tỉnh miền núi, công tác thiết kế và xử lý móng chưa phát triển và gặp nhiều khó khăn do điều
kiện kinh tế xã hội, địa hình núi đồi và thời tiết thất thường. Phương pháp gia
cố nền đất bằng công nghệ ô ngăn hình mạng NEOWEBTM là một công nghệ
hết sức phù hợp với các tỉnh miền núi nói chung. Công nghệ này không phức tạp
về thiết kế, thi công và khả năng cung ứng vật liệu cũng như nguồn nhân lực đơn
giản, có thể tận dụng vật liệu địa phương, vật liệu có sẵn giúp giảm giá thành
sản phẩm, thích hợp với các tỉnh chưa phát triển về kinh tế, mức đầu tư, công
trình giá trị chưa cao mà vẫn đảm bảo hiệu quả về mặt sử dụng và bảo trì. Không
những thế, thi công công nghệ NEOWEBTM còn rất đơn giản, rút
ngắn thời gian thi công, thích hợp với điều kiện khí hậu mưa nắng thất thường
như các tỉnh miền núi nước ta, mặt khác giảm thời gian thi công là giảm giá
thành xây dựng, đó là một lợi thế không hề nhỏ. Tính hữu dụng của công nghệ này
còn thể hiện ở chỗ thích hợp cao với địa hình miền núi, nơi có nhiều đồi, vách
cao, sông ngòi ngoằn nghèo hiểm trở, sử dụng nhiều công trình giao thông đồi
núi, công trình thủy lợi phức tạp về địa hình, mái dốc taluy, độ dốc cao và
phức tạp. Áp dụng tốt cho các loại đường giao thông dân dụng vùng sâu vùng xa,
bớt quá trình và công đoạn vận chuyển, đơn giản hóa thi công và đào tạo nhân
lực, thích hợp với vùng chưa phát triển về kinh tế xã hội cũng như trình độ kỹ
thuật xây dựng.
Hệ thống ô ngăn hình mạng NEOWEBTM là mạng lưới các ô ngăn hình mạng
dạng tổ ong được đục lỗ và tạo nhám từ chất liệu polyme tổng hợp. Các mạng lưới ô ngăn hình mạng tổ ong liên hợp
được liên kết chặt chẽ với nhau sẽ phân bố tải trọng trên một diện tích rộng
hơn, tạo ra một lớp đệm ba chiều có cường độ chụi uốn và độ cứng cao. Lớp đệm
này làm giảm độ lún thẳng đứng trong nền đất yếu, nó cải thiện được sức chống
cắt và tăng cường độ chụi tải của kết cấu.
Khi chèn lấp vật liệu, một kết cấu liên hợp địa kỹ thuật bao gồm các vách
ngăn và vật liệu được tạo ra, với các đặc tính cơ – lý địa kỹ thuật được tăng
cường. Là một kết cấu linh động chịu được sự biến đổi lớn của nhiệt độ môi
trường từ -70 oC đến +90 oC . Độ bền cao đạt từ 50 - 100
năm trong môi trường khắc nhiệt nhất. Đảm bảo làm việc ổn định, không thay đổi
tính chất cơ lý của đất và vật liệu chèn lấp, giữ cường độ và độ bền ổn định trong
môi trường thay đổi.

Hệ thống ngăn cách Neoweb [1]
Hệ thống NEOWEBTM được áp dụng trong rất nhiều lĩnh
vực:
Xây dựng kết cấu áo đường ô tô, gia
cố nền đường sắt, gia cố nền sân bay, nền sân kho hay móng nông trên nền đất
yếu v.v..
Gia cố
các hệ thống kênh mương, mái đê và bờ kè v.v..
Bảo vệ
các mái dốc chống sạt lở và xây dựng tường chắn đất, mái taluy, mái nghiêng, mái
dốc với độ dốc phức tạp v.v..
Gia cố xây dựng
các hồ chứa nước, hồ thủy điện thủy nông v.v..
Gia cố, xây
dựng nhiều loại móng nông, móng sâu khác như mố trụ cầu, móng hầm vượt và nhiều
loại móng khác.

Áp dụng giải pháp Neoweb [1]
Ưu điểm của giải pháp NEOWEBTM
Về mặt kỹ thuật: Đảm bảo được mọi yêu cầu kỹ thuật
của các công trình. Sản phẩm đạt các tiêu chuẩn hàng đầu trên thế giới (ISO
9001:2000). Vật liệu chế tạo sẵn được tính toán trong phòng không phải thực
hiện hiện trường nhiều, gia công trong nhà máy chính vì vậy đảm bảo được chất
lượng và độ chính xác cao của kết cấu, chất lượng của vật liệu ô lưới. Do vật
liệu là polyme tổng hợp thích ứng với môi trường khắc nhiệt, khả năng chóng
trọi môi trường thay đổi cao do đó làm tăng tuổi thọ công trình, giảm thiểu quy
trình bảo dưỡng duy tu, bảo hành công trình.
Về mặt kinh tế: Giảm vật liệu xây dựng, vật liệu chế tạo đơn giản, giảm chi phí quy trình
sản xuất do không phải đầu tư công nghệ cao, chi phí tính toán thiết kế vật
liệu chế tạo sẵn, tăng tuổi thọ, tăng chất lượng công trình, giảm chi phí đầu
tư ban đầu và chi phí duy tu bảo dưỡng, bảo hành sau này, quan trọng là có thể
tận dụng các loại vật liệu địa phương, vật liệu tại chỗ, giúp giảm thiểu công
vận chuyển vật liệu đến chân công trình, nhân công lắp đặt, máy thi công đơn
giản chi phí thấp góp phần làm giảm giá thành xây dựng công trình từ 20-30%
[1]. Mặt khác chi phí đào tạo và chuyển giao công nghệ giảm thiểu đáng kể khi
thi công áp dụng công nghệ gia cố nền đất này, nguồn nhân lực địa phương thích
hợp, không yêu cầu chuyên gia trình độ cao, giảm thiểu chi phí đào tạo và
chuyển giao công nghệ thực hiện.
Về mặt thi công: Kỹ thuật thi công
đơn giản, tốc độ thi công nhanh giúp tránh được các rủi ro không cần thiết
trong quá trình thi công. Không đòi hỏi nhiều thiết bị máy móc phức tạp, nhân
lực dễ dàng trong đào tạo vận hành, quy trình thực hiện không phức tạp, thực
hiện đơn giản trong vận hành máy móc, có thể dễ dàng tìm kiếm máy móc thi công,
không tốn thời gian công sức cho vận hành thiết bị. Có thể thi công được trong
các điều kiện kiện khó khăn, thời tiết thay đổi thường xuyên, đột ngột.
Về mặt môi trường: Công nghệ gia cố nền đất bằng phương pháp ô ngăn hình mạng NEOWEBTM có tính thân thiện với
môi trường cao. Khả năng thích ứng với môi trường khắc nhiệt, thay đổi mà không
bị ảnh hưởng, không tác động đến các chỉ số kỹ thuật của môi trường khí hậu,
không gây ô nhiễm, hủy hoại môi trường xung quanh không những trong quá trình
thi công mà còn trong suốt thời gian vận hành duy tu, bảo dưỡng. Tất cả các vật
liệu thi công từ vật liệu chế tạo sẵn đến vật liệu chèn lấp đêu thích ứng với
môi trường, không ảnh hưởng tác động xấu đến môi trường xung quanh, sức khỏe
con người, nhân lực, chính vì vậy công nghệ này được coi là công nghệ “xanh”
với môi trường.
* Phương pháp thi công công nghệ NEOWEBTM:
Phương pháp gia cố nền đất bằng công nghệ ô ngăn hình mạng NeowebTM
có quy trình thi công đơn giản, việc thi công công nghệ này trong các công
trình giao thông, thủy lợi và dân dụng công nghiệp là tương đối giống nhau về
quy trình thi công. Các bước của quá trình thi công gồm:
* Chuẩn bị thi công, máy móc vật liệu, gồm chọn phương án thi công phù hợp với
điều kiện địa hình, tính toán loại máy móc và các quy trình khác, trong đó kỹ
sư thiết kế đã có tính toán chọn hệ thống kích thước ô ngăn Neoweb, tính toán
kết cấu nền móng, hệ số đầm chặt của đất nền, vải địa kỹ thuật và loại vật liệu
chèn lấp vận chuyển đến chân công trình.
* Thực hiện phần gia cố nền móng dưới, bao gồm đào và vận chuyển đất đến độ sau
thiết kế, tạo hình khối móng phù hợp với kích thước công trình thiết kế, đầm
chặt đến hệ số đầm đã tính toán để làm lớp đất lót móng tạo mặt bằng đồng đều
đồng nhất, giúp thi công dễ dàng và đảm bảo chất lượng.
* Thực hiện lót lớp vải địa kỹ thuật trên nền móng vừa hoàn thiện. Các lớp lót
này phải bằng phẳng, không nhăn, co, không gấp tại các lớp giao nhau. Lớp vải
lót phải kín, không rách, hở để tránh sự trộng lẫn vật liệu, toàn bộ lớp lót
căng đều thành một mặt phẳng. Nếu trong nền đất quá ẩm hoặc có nước thì phải
tiến hành hút đạt độ ẩm yêu cầu tùy vào công trình thi công và loại vật liệu
chèn lấp.
* Dải lớp ô ngăn gia cố: đây là phần chính của kết cấu áo gia cố, các ô ngăn
được vận chuyển đến phải được kỹ sư thiết kế nghiệm thu đạt mới cho phép thi
công. Khi trải lớp ô ngăn này phải đồng đều trên toàn bộ phần nền móng, kích
thước được đo đạc chính xác không méo mó lệch lạc, phải có thiết kế quy trình
rải ô, ví dụ dải từ trái qua phải, từ trong ra ngoài… Các ô phải rải đồng loạt
theo cùng một phương để tránh bị lệch lạc meo mó dẫn đến giảm chất lượng thi
công. Khi rải xong nếu có kết cấu neo thép phải đo lại đúng kích thước ô lưới
đúng với kích thước thiết kế, nếu sai lệch phải chỉnh sửa lại đúng yêu cầu
thiết kế.
* Đổ vật liệu chèn lấp.
Vật liệu trước khi đổ phải được nghiệm thu kiểm tra kỹ trước khi thi công. Tùy
từng loại vật liệu chèn lấp mà yêu cầu thi công khác nhau. Thường thường người
ta dùng máy xúc và máy gạt để đổ vật liệu sẽ thi công nhanh, đỡ tốn nhân công
nhân lực. Đối với vật liệu nói chung phải đồng đều, kích thước hạt phải đạt
tiêu chuẩn thiết kế được kỹ sư giám sát cho phép đổ. Với bê tông phải đúng mác
thiết kế, và đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn nghiệm thu bê tông. Với đá dăm hay
sỏi, cát phải đồng đều về kích cỡ hạt, sạch không lẫn bẩn, rác, và vật liệu khi
đổ phải không vỡ vụn trong quá trình thi công do sự chèn ép, đè của máy thhi
công. Đối với vật liệu chèn là đất trồng phải đảm bảo độ ẩm, độ chặt tiêu
chuẩn, tính tơi xốp và khả năng kết dính theo yêu cầu thiết kế.
Khi thi công vật liệu chèn lấp phải thi công đồng đều, lần lượt về cùng một
phía hoặc từ giữa ra phía ngoài, không đổ dật cấp, cách đoạn. Đổ liên tục đồng
đều bề mặt. Phần lớn ô lưới cao dưới 20cm nên đa số thi công đổ một lần một lớp
rồi lu lèn chặt. Khi lu, đầm phải chú ý không làm xê dịch các ô lưới và hệ
thống neo lưới.
* Nghiệm thu toàn bộ công tác gia cố
Khi nghiệm thu toàn bộ công tác gia cố này phải đạt các tiêu chuẩn thiết kế khi
thí nghiệm hiện trường. Các lớp vật liệu chèn lấp phải được đầm chặt theo yêu
cầu thiết kế, vật liệu phải đều, bề mặt bằng phẳng, không lồi lõm. Các ô lưới
sau khi thi công còn nguyên vẹn, không xê dịch, mất định vị ban đầu, hệ thống
gia cố đảm bảo, neo theo không bị uốn cong. Kích thước toàn bộ công trình phải
đúng với thiết kế bản vẽ thi công. Nếu cần thiết có thể thử tải, khoan hiện
trường và thí nghiệm vật liệu chèn lấp tùy vào yêu cầu thiết kế và vật liệu thi
công gia cố.
* Thi công phần bên trên công trình: Tiến hành thi công các phần tiếp theo của
công trình sau khi có kết quả nghiệm thu.
Đây là quy trình thì công cơ bản có tính tổng quát, đối với các công trình cũng
như loại móng khác nhau, vật liệu chèn lấp, vị trí móng gia cố subbase hay
topbase... thì phương pháp thi công công nghệ NeowebTM có thể khác
nhau./.
Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2012
Tao và mày (phần tiếp theo)
(TT&VH)
- Ngày xưa khi bạn đến một vùng xa lạ, người ta sẽ hỏi rằng: Mày là kẻ nào?
Nhưng bây giờ mà nói thế chắc là đánh nhau.
1. Trong bản in khắc gỗ ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh)
mang tên “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục”, năm 1752, được khắc bằng chữ
Nôm và chữ Hán song song, có những câu sau:
-
Bây chừ mày trong phép tao, tuồng có duyên xưa (Kim nhữ ngô pháp trung, cái
hữu túc duyên): Ngươi đã được theo học phép thuật của ta, dường như là có
duyên từ trước.
- Ngày hôm nay nghe, hợp bằng lòng mày thửa nguyện (Kim nhật
thính độ, như nhữ sở nguyện): Hôm nay được nghe Kinh, như ngươi thường
mong ước.
- Thầy rằng mày đã nên phép nhà tao (Viết nhữ thành ngô pháp
quyến):
Thầy nói rằng ngươi đã học được phép thuật của ta.
- Tao đáp (giúp) nhà mày một áng sức vậy (Ngã trợ nhữ gia nhất
trường khí lực hỹ): Ta giúp nhà ngươi một sức vậy.
- Tao cùng mày chưng ấy lặng, chẳng hay sao lỗi ắt lại (Ngô dữ
nhữ thử mẫn, bất tri hà cữu tất lai): Ta với nhà ngươi không có chuyện gì, chẳng
hay lỗi ấy từ đâu ra.
(Tham khảo từ cuốn “Di văn chùa Dâu” – NXB KHXH, 1997)
Văn
bản này được coi là in khắc lại của một văn bản từ thế kỷ 15, bởi toàn bộ những
gì thuộc về Trung Quốc đều gọi là nước Minh. Nội dung đối thoại là giữa sư Khâu
đà la và cô đệ tử Man Nương, sau này Khâu đà la vô tình bước qua Man nương khi
cô ngủ ngoài bậc cửa, nên cô động mình mà có thai. Câu cuối cùng nói rằng giữa
nhà sư và cô gái không có một chuyện gì, mà sao lỗi ấy từ đâu ra.
Theo
truyền thuyết thì sư Khâu đà la sau đó nhận đứa bé mà Man nương sinh ra, đem
vào rừng bỏ vào cây thần dung thụ (cây dâu). Sau một trận lụt cây dâu đổ xuống,
người ta cưa cây thành bốn khúc gỗ, tạc bốn pho tượng Mây – Mưa -
Sấm - Chớp rất thiêng, nay thờ ở cụm chùa Tứ Pháp, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Điểm
quan trọng nhất là cho đến năm 1752, ở Đàng Ngoài, việc xưng hô giữa thầy chùa
và phật tử cũng là “mày” và “tao”. Tôi cũng nghĩ là việc phiên âm chữ Nôm ở đây
hơi mới, lúc đó phát âm cũng tương tự như “tau” và “mâi” thôi, riêng người Kẻ
Chợ (Thăng Long) có thể đã nói “tao” và “mày”.
![]()
Cảnh chợ búa thời xưa. Trích trong sách “Kỹ
thuật của người An Nam”,
Henri Oger
|
2. Nếu đúng là trước thế kỷ 18, như văn bản chùa Dâu, người Việt
vẫn xưng hô “tao” và “mày”, thì nguyên do từ đâu mà người Việt dùng những đại
từ nhân xưng trong quan hệ gia đình đem ra xã hội?
Có
thể sự thay đổi giữa nhân xưng đơn giản chuyển sang phức tạp không đồng loạt ở
các địa phương và thời điểm. Người ta cho rằng, sau những cuộc chiến tranh ác
liệt thời Trần và thời Lê với quân Nguyên Mông và quân Minh, người Việt phải đi
sơ tán lung tung trong toàn quốc, người sơ tán và người địa phương phải coi
nhau như người nhà, nên gọi nhau là anh em, chú bác, đồng bào (người cùng
ruột).
Tiếp
sau đó, nhà Lê sơ bắt đầu coi trọng Nho giáo, lấy lễ nghĩa cương thường làm
rường mối xã hội, quan hệ xã hội trở nên phức tạp dần và nhiều nghi lễ, tập
tục, kết quả là một cách xưng hô mới trong tiếng Việt dần hình thành cộng với
sự gia tăng ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc bởi những người Hoa di cư sau năm
1644, khi nhà Minh thất bại trước quân Mãn Thanh.
Ngôn
ngữ là hiện tượng rộng rãi trong cộng đồng dân tộc, nó thay đổi, bổ sung và mất
đi liên tục theo các trào lưu xã hội hằng ngày. Trước kia khi muốn đơn giản
nhiều người Việt đành dùng lối xưng hô theo tiếng Pháp, ngày nay theo tiếng
Anh, với ba ngôi duy nhất, và khi tất cả đều là “you” với “i” thì bày tỏ tình
cảm phi tuổi tác hay thẳng thắn chỉ trích nhau cũng dễ dàng hơn.
Ngày
xưa khi bạn đến một vùng xa lạ, người ta sẽ hỏi rằng: Mày là kẻ nào? Chữ
“kẻ” ở đây có nghĩa là địa phương, vùng đất, nên câu hỏi có nghĩa là: Anh từ
đâu đến, giống hệt như Where are you from? Nhưng bây giờ mà nói thế chắc
là đánh nhau.
Nhà phê bình Phan Cẩm Thượng
Tao và mày
(TT&VH) - Trong lời ăn tiếng nói hàng
ngày của người Việt, có rất nhiều đại từ dùng cho ba ngôi thứ nhất, thứ hai và
thứ ba, trong khi hầu hết các ngôn ngữ khác, đại từ nhân xưng rất đơn giản, như
tiếng Anh chẳng hạn, chỉ có I và You, ngôi thứ ba He, She và It, cùng số nhiều
của ba ngôi đó.
1. Chúng ta có thể kê ra hàng loạt đại từ nhân xưng trong tiếng
Việt như : Tôi, ta, tao, tớ, mày, anh, em, chị, cô, chú, bác, ông, cụ, nó…Nghĩa
là ngoài một số đại từ cơ bản như tôi và anh, mày và tao, thì có vô số đại từ
vốn chỉ thứ bậc và quan hệ huyết thống trong gia đình được đưa tuốt ra ngoài xã
hội.
![]() Đàn bà cãi nhau. Hình trong sách "Kỹ thuật của người An Nam", Henri Oger, xuất bản đầu thế kỷ 20. |
Một số đại từ lại được nói trong cả hai ngôi,
vì dụ ta có thể xưng chị, đưa cho chị cái này (ngôi thứ nhất) rồi lại gọi một
cô gái khác là chị ơi, chị đi đâu đấy (ngôi thứ hai). Việc xưng hô như vậy làm
cho tiếng Việt trở nên phong phú, nhưng cũng phức tạp và phiền hà không kém,
trở thành một ngôn ngữ mang nhiều mầu sắc lễ nghĩa tôn ti.
Nhưng
tiếng Hán của người Hán vốn là một dân tộc sinh ra Nho giáo với nhiều nghi lễ
phiền toái, lại chỉ có ba ngôi xưng hô thông dụng : Ủa, Nỉ và Tha (1,2,3 ).
Tất
nhiên trong chốn quan trường, công sở, thi lễ thì tiếng Hán được dùng để xưng
hô cũng phức tạp bậc nhất, người ta phải tùy từng địa vị, quan hệ, hoàn cảnh mà
ăn nói cho đúng phép – một thứ kính ngữ sâu sắc và lôi thôi chưa từng có. Khi
hai kẻ sỹ gặp nhau, họ nói là Thưa túc hạ (tôi chỉ dám nói với cái chân của
ngài), gặp quan trên, bề trên thì Thưa các hạ (tôi chỉ dám nói với cái
gác của ngài), gặp hoàng tử, thái tử thì nói Thưa Điện hạ (tôi chỉ dám
nói với cung điện của ngài), yết kiến vua thì thưa Tâu Bệ hạ (tôi chỉ
dám nói với cái bệ của nhà vua). Rồi gọi nhau là Đại nhân, Tiên sinh,
Thượng quan, Tướng công, Đại phu, Tráng sỹ, Hiền sỹ, Tướng quân… tức là những
chức tước cũng được dùng thành ngôi thứ hai ba để kính ái nhau. Ngược lại kẻ
làm vua lại xưng khiêm tốn, ví dụ xưng Cô (kẻ cô đơn này), Quả nhân (kẻ cô độc
này), trẫm (kẻ ngu tối này)… kèm theo lối ăn nói văn hoa, khen ngợi, xưng tụng,
tâng bốc. Ví dụ: Nghe danh ngài như sấm dậy bên tai đã lâu, nay gặp mặt mới
thỏa lòng mong ước/ Tôi gặp ngài khác nào quạ dám sánh với phượng hoàng, ngựa
hèn sánh với kỳ lân/ Đức độ của ngài lan ra bốn bể, khắp hang cùng ngõ hẻm, ai
ai cũng nghển cổ trông ngóng/ Lời của ngài chúng tôi đã phải rửa tai chín lần
để chờ đợi…
Mặc
dù kính ngữ phức tạp như vậy, nhưng trong khi nói chuyện, người ta chỉ cần thưa
tôn kính lần đầu, còn những câu nói sau có thể quay lại Nhĩ – Ngã như bình
thường. Giống như ta nói tiếng Anh : Thưa Tiến sỹ, anh có khỏe không? Điều này
là hoàn toàn khác với tiếng Việt, người ta căn bản không thay đổi đại từ nhân
xưng trong suốt cuộc nói chuyện, hoặc là phải dùng đại từ tương đương với tuổi
tác của người đang nói.
2. Nghe những người thiểu số nói chuyện, tôi thấy hai ngôi tao,
mày duy nhất cũng được dùng phổ biến, điều này cũng thấy cách đây ba bốn mươi
năm ở các tỉnh từ Thanh Hóa đổ vào trong. Tất nhiên chênh lệch tuổi tác và có
quan hệ họ hàng các ngôi vẫn phức tạp, nhưng quan hệ bình thường, việc dùng
tao, mày và nói là mi với tau là rất phổ biến.
Cha
mẹ nói với con cái, anh em gần tuổi nói với nhau, đàn ông đàn bà cùng trang
lứa… tất cả phổ biến là mi và tau. Đó là ngữ âm cổ của người Việt, thấy khắp từ
Thanh Hóa đến các xứ Quảng. Tôi nghi ngờ rằng vào một thời xưa nào đó người
Việt cũng chỉ dùng phổ biến đại từ nhân xưng đơn giản tao và mày, rồi vì một lý
do nào đó, thời nào đó, cách thức xưng hô thay đổi theo chiều hướng gia đình
hóa cho tới hiện nay.
Chuyên mục do nhà
phê bình Phan Cẩm Thượng thực hiện, xuất hiện vào số Chủ nhật hàng tuần.
|
3.
Trong một văn bản tại hội nghị giải quyết những bất đồng liên quan đến thuật
ngữ Ki tô giáo bằng tiếng Việt, do Quyền Giám sát dòng Tên hai vùng Trung Nhật
triệu tập tại Macao năm 1645, hội nghị có đưa ra mô thức rửa tội bằng tiếng
Việt có câu như sau: Tau rữa mâi nhân danh Cha uà Con, uà spirito santo - Tao
rửa mày nhân danh Cha và Con, và spirito santo (Tham khảo từ cuốn Dinh
trấn Thanh Chiêm Quảng Nam, Đinh Trọng Tuyến và Đinh Bá Truyền biên soạn).
Trong hội nghị này có 35 giáo sỹ, 31 phiếu thuận, 2 phiếu trắng và 2 phản đối
trong đó có Alexandre de Rhodes, nhưng nghị quyết vẫn được thông qua. Ở đây ta
thấy việc xưng hộ giữa cha xứ và con chiên được nói bằng hai ngôi tau (tao) và
mâi (mi, mày). Nếu ngày nay một đức cha mà xưng mày, tao với con chiên
trong nhà thờ thì quả không ổn, nhưng điều đó cho thấy có thời việc xưng hô hai
ngôi đơn giản là rất phổ biến ở Đàng Trong, nhất là xứ Quảng Nam, nơi cha
Francissco de Pina (? – 1625) được coi là người đầu tiên dùng chữ Latin phiên
âm tiếng Việt.
(còn tiếp)
Phan Cẩm Thượng
Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2012
Tiêu chuẩn 22TCN 248-98 thiết kế thi công nghiệm thu Vải ĐKT trên nền đất yếu
TIÊU CHUẨN NGÀNH
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
|
VẢI ĐỊA KỸ THUẬT TRONG XÂY DỰNG NỀN ĐẮP TRÊN ĐẤT YẾU
Tiêu chuẩn thiết kế thi công và nghiệm thu
|
22TCN 248-98
|
Bộ Giao thông vận tải
|
Có HIỆU LỰC TỪ 5/9/1998
|
I.Các quy đỊnh chung
1.1.
Phạm vi áp dụng: Tiêu chuẩn này được áp dụng cho tính toán thiết kế, thi công
và nghiệm thu công trình ứng dụng vải địa kỹ thuật trong xây dựng nền đất đắp
trên đất yếu. Nội dung thiết kế chỉ quy định việc chọn vải, những tính toán cần
thiết co việc xác định vị trí đặt vải và số lớp vải để tăng cường mức độ ổn
định của nền đắp trên nền đất yếu; còn các vấn đề tính toán về lún, về thấm lọc
, bảo vệ và gia cường mái dốc không quy định ở đây.
1.2.
Vải địa kỹ thuật đặt giữa nền đất yếu và nền đắp làm chức năng tăng cường ổn định cho nền đất đắp đồng thời
tạo hiệu ứng để đầm chặt đất đắp.
Việc
sử dụng vải địa kỹ thuật để làm chức năng nói trên không phải là điều bắt buộc
mà chỉ là một giải pháp, một phương án đưa ra để so sánh về kinh tế kỹ thuật
với các phương án xử lý khác, khi việc kiểm toán ổ định trong điều kiện trực
tiếp nền đắp trên nền đất yếu không đạt yêu cầu như nói ở điểm 2.2.1.1. Đất yếu
ở đây chỉ loại đất sét, hoặc á sét có độ sệt B>0.5 hoặc đất đầm lầy than bùn
( lượng hữu cơ chiếm trên 20%) hay bùn cát có độ bảo hòa G>0.8.
1.3
Để thiết kế xử lý đất yếu bằng vải địa kỹ thuật cần khảo sát thu thập các số
liệu sau:
-
Khảo sát địa chất công trình theo 22 TCN 82-85 nhằm cung cấp chính xác phạm vi
chiều dầy và các chỉ tiêu đặc trưng của
đất yếu.
-
Điều tra vật liệu xây dựng công trình như : vật liệu đắp, tính năng vải và máy
móc xây dựng.
-
Quy mô công trình, thời gian thi công và tiến độ thi công công trình.
1.4. Ngoài việc thực hiện các yêu cầu
của tiêu chuẩn này, các đơn vị tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát và thi công
phải tuân thủ các quy định hiện hành khác trong khảo sát thiết kế và thi công
xây dựng nền đường nói chung.
II. Tính toán thIẾT KẾ
2.1. Thiết kế cấu tạo
2.1.1
Bố trí vải địa kỹ thuật khi xây dựng nền đắp trên nền đất yếu thực hiện như
sau:
2.1.2
Khi sử dụng vải địa kỹ thuật làm lớp phân cách thường trải một lớp trên nền đất
yếu. Lớp đất đắp đầu tiên trên vải dùng vật liệu thoát nước cát hạt trung có
các yêu cầu sau:
-
Tỷ lệ hạt lớn hơn 0.25mm phải chiếm trên 50%.
-
Tỷ lệ hạt nhỏ hơn 0.14mm không quá 10%.
-
Hàm lượng hữu cơ không quá 5%.
2.1.3
Khi sử dụng vải địa kỹ thuật với chức năng gia cường thì dùng hai hoặc nhiều
lớp tùy thuộc và các tính toán ở mục 2.2, Khoảng cách giữa hai lớp vải tối
thiểu 0.3m. Vật liệu đắp giữa hai lớp vải đầu tiên cũng dùng cát hạt trung như
quy định ở mục 2.1.2.
2.2
Tính toán thiết kế
Tính
toàn thiết kế phải tuân thủ tiêu chuẩn thiết kế đường ô tô TCVN 4054-98 hoặc
tiêu chuẩn đường ô tô cao tốc TCVN 5729-97, quy trình thiết kế” Khảo sát thiết
kế nền đường qua vùng đất yếu” hiện hành. Ngoài ra khi dùng vải với chức năng
gia cường phải tính toán thêm các vấn đề sau:
2.2.1
Tính toán ổn định công trình
2.2.1.1
Tính toán ổn định trượt sâu với hệ số ổn định được quy định
Kmin
>=1.2 theo phương pháp phân mảnh cổ điển
K
= (Mômen giữ +NY/Mômen gây truợt)
N
phải được giới hạn bởi các điều kiện sau:
N<=Nmax/k
Trong
đó: Nmax là cường độ chịu kéo đứt lớn
nhất của vải lúc đem dùng.
k:
là hệ số lấy bằng 2.0 nếu dùng vải polyeste và lấy bằng 5.0 nếu dùng vải
polypropylen hoặc polyetylen.
N
≤
g. hi.f (2-3)


N
≤
gw. hi.f (2-4)


Điều kiện (2-3), (2-4) là để đảm bảo
lực kéo có hiệu ( cho phép) của vải phải nhỏ hơn lực ma sát phát sinh giữa mặt
trên của vải với đất đắp cả ở vùng hoạt động (1) và vùng bị động (2)
Trong đó: f là hệ số ma sát tính toán
( đã xét đến hệ số an toàn bằng 1.5) giữa đất đắp và vải:
f
= 4/9 tgj (2-5).
Với j : là góc nội ma sát của đất đắp
hi: chiều
cao của đất đắp trên vải ( thay đổi theo dạng taluy; trong phạm vi bề rộng đỉnh
nền đường hi= h chiều cao nền đắp).
2.2.1.3
Kiểm toán điều kiện ổn định trượt đất đắp trên vải địa kỹ thuật theo công thức
sau:
Fa
< F (2-6).
Trong
đó:
Fa:
lực đẩy tính theo công thức
Fa=
½ Ka. gw. h2 (2-7)
Với gw: dung trọng đất đắp
h
: chiều cao nền đắp.
Ka:
Hệ số áp lực chủ động Kankin.
Ka
= (1-sinj)/(1-cosj).
j : là góc nội ma sát của đất đắp.
F:
Lực ma sát giữa đất đắp và mặt vải địa kỹ thuật ( lực giữ). Bỏ qua lực dính
giữa đất đắp và vải thì:
F=G.
f
Trong đó: f được xác định như công thức (2-5)
G
trọng lượng khối đất đắp trong phạm vi mái dốc rộng.
Việc khống chế tốc độ đất đắp nền trên đất yếu ( có vải địa
kỹ thuật tăng cường) được thực hiện được như sau:
Phải bố trí mốc quan trắc lún và mốc
quan trắc biến dạng ngang. Tối thiều mỗi công trình phải bố trí 8 trắc ngang
quan tr8a1c lún và 10m dài 1 mốc quan trắc biến dạng ngang. Nếu
+
Lún <= 1cm/ ngày
+
Chuyển vị ngang <= 5mm/ ngày
Thì
tiếp tục đắp . Nếu lún và chuyển vị ngang quá tiêu chuẩn trên thì tạm ngừng đắp
để theo dõi, nếu thấy biến dạng không tiếp tục vta8ng thêm nữa thì cho đắp
tiếp.
2.2.2.
Tính toán lựa chọn vải
2.2.2.1.
Chọn loại vải, số lớp vải theo mục đích gia cường phải dựa trên cơ sở tính toán
ở mục 2.2.1. và không trái với yêu cầu nêu ở mục 3.1.1.
2.2.2.2.
Chiều rộng trải vải địa kỹ thuật khi thiết kế phải lớn hơn chiều rộng của nền
đường ít nhất là 1 m để cuốn phủ lên lớp thứ nhất của lớp cát thoát nước ngang
( thay thế tầng lọc ngược hai bên nền đường).
III.
THI CÔNG, KIỂM TRA, NGHIỆM THU CÔNG TRÌNH
3.1 Yêu cầu đối với vật liệu xây dựng
3.1.1
Vải địa kỹ thuật: vải địa kỹ thuật dùng để tăng cường ổn định nền đắp trên đất
yếu, phải đảm bảo có các chỉ tiêu sau đây:
-
Cường độ chịu kéo giật không dưới 1.8kN ( ASTM D 4632)
-
Độ giãn dài: ≤ 65% ( ASTM D 4632)
-
Khả năng chống xuyên thủng (CBR): 1500 – 5000N ( BS 6906-4)
-
Đường kính lỗ lọc f90 ≤ 0.15mm ( ASTM D 4751).
-
Vải địa kỹ thuật phải được bảo quản cẩn thận, tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh
sáng quá 3 ngày.
3.1.2.
Chỉ khâu vải phải là chỉ chuyên dùng có đường kính 1-1.5mm, cuờng độ chịu kéo
đứt 40K/ 1 sợi chỉ.
3.1.3.
Lớp cát đắp trên vảipha3i là cát hạt trung, có các yêu cầu như mục 2.1.1.
3.1.4.
Ngoài máy móc thiết bị dùng trong xây dựng đường phải có máy khâu chuyên dùng
để khâu vải địa kỹ thuật.
Máy
khâu vải phải là máy khâu chuyên nghiệp có khoảng cách mũi chỉ từ 7 đến 10mm.
3.2. Công nghệ thi công
3.2.1.
Thiết kế truớc khi sơ đồ trải vải làm việc của máy khâu vải theo nguyên tắc
tổng chiều dài đường khâu ngắn nhất. Khi sử dụng vải với mục đích gia cường thì
rải vải theo hướng thẳng góc với tim đường.
3.2.2.
Chuẩn bị mặt bằng trước khi trải vải địa kỹ thuật
-
Bơm hút nước hoặc tháo khô nền đường toàn bộ diện tích rải vải địa kỹ thuật.
-
Dọn sạch gốc cây, cỏ rác và các vật liệu khác
-
Đào đất đến cao độ thiết kế trải vải.
-
San phẳng đất nền trước khi trải vải
3.2.3
Trải và nối vải địa kỹ thuật ( các bước thi công xem hình vẽ)
Sau
khi tạo mặt bằng, tiến hành trải vải và nối vải. Việc nối vải phải tiến hành
bằng máy khâu (được giới thiệu trong hình vẽ). Đường khâu cách biên 5-15cm:
khoảng cách mũi chỉ là 7-10mm.
3.2.4
Đắp đất trên vải
-
Sau khi trải vải xong sẽ tiến hành đắp lớp đầu tiên trên vải địa kỹ thuật bằng
cát hạt trung quy định tại điều 2.1.2. Nếu nền quá yếu, có thể đắp lớp đầu tiên
dày 50cm.
-
Sau khi san vật liệu tiến hành lu bằng xe bánh xích, sau đó tiến hành lu bằng
xe bánh lốp và tải trọng tăng dần để đạt độ chặt theo yêu cầu.
-
Từ lớp đắp thứ 2 thi công và kiểm tra bình thường như thi công nền đường.
3.2.5.
Trong quá trình thi công không được để máy thi công di chuyển trực tiếp trên
mặt vải địa kỹ thuật.
3.3 Kiểm tra và nghiệm thu
3.3.1
Kiểm tra trước khi thi công bao gồm công tác kiểm tra mặt bằng thiết bị, vật
liệu theo yêu cầu ở 3.1.
-
Nghiệm thu kích thước hình học và cao độ nền thiên nhiên khi trải vải có sự
chứng kiến của tư vấn giám sát.
-
Đối với vải địa kỹ thuật phải thi nghiệm kiểm tra các chỉ tiêu nói ở điểm
3.1.1. Khối lượng kiểm tra 10.000m2/ 1 mẫu hoặc khi thay đổi lô hàng nhập.
-
Kiểm tra máy khâu và chỉ khâu vải địa kỹ thuật theo yêu cầu của điểm 3.1.2 và
3.1.4.
3.3.2
Kiểm tra trong khi thi công:
-
Kiểm tra sự tiếp xúc của vải địa kỹ thuật với nền, không được gập và phần thừa
mỗi bên để cuốn lên theo quy định ở điều 2.3.3.
-
Cát đắp trên vải làm lớp thoát nước kiểm tra theo điểm 2.1.1. Khối lượng kiểm
tra 1.000m3/1 mẫu.
-
Kiểm tra các mối nối vải bằng mắt, khi phát hiện đường khâu có lỗi phải khâu
lại đảm bảo theo điều 3.2.3.
-
Kiểm tra độ chặt nền đất đắp theo quy trình thi công nền đường hiện hành.
3.3.3
Kiểm tra nghiệm thu khi thi công
Tiến
hành như quy trình thi công nền đường hiện hành.
4. Công nghệ thi công
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)